tag:blogger.com,1999:blog-27393922476011635522024-03-04T23:28:19.948-08:00Sư phạm Triết học © 2010Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comBlogger25125tag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-38776079184336146492010-10-08T03:44:00.000-07:002010-10-08T03:44:38.083-07:00QUÂN TỬ VÀ TIỂU NHÂN TRONG “LUẬN NGỮ”<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEho6OQSMhIab5MOZ2iF8SUeK8xdlRUmWzqxQXbaeO1c8uHNCxDvNNg3j08QhCQgb6XHdxKjEfa5dW-0DlpHcyV5mEtfDbndOuMzkP-tgrBSUosK1wY8F27jw7eYWXLNDwSz0op5ojlHQ4Y/s1600/fungy.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="319" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEho6OQSMhIab5MOZ2iF8SUeK8xdlRUmWzqxQXbaeO1c8uHNCxDvNNg3j08QhCQgb6XHdxKjEfa5dW-0DlpHcyV5mEtfDbndOuMzkP-tgrBSUosK1wY8F27jw7eYWXLNDwSz0op5ojlHQ4Y/s320/fungy.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Bài viết trình bày và phân tích sự phân loại con người theo tiêu chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu nhân của Nho giáo, chủ yếu là trên cơ sở quan niệm của Khổng Tử về quân tử và tiểu nhân trong Luận ngữ. Tác giả chỉ ra ba điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại người này: một là, trên phương diện làm theo đạo “Trung dung”; hai là, trên phương diện nhận thức về nghĩa và lợi; và ba là, trên phương diện thực hành đạo đức. Từ đó, bài viết chỉ ra ý nghĩa sâu xa của việc Nho giáo so sánh hai loại người này và mục đích giáo dục của Nho giáo. </em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Ra đời trong hoàn cảnh xã hội rối ren, loạn lạc, vô đạo, Nho giáo rất quan tâm đến việc củng cố trật tự và chế độ đẳng cấp trong xã hội. Ngay từ đầu, nó đã rất coi trọng việc phân loại con người, chỉ ra địa vị, phẩm chất và vai trò của từng hạng người trong xã hội, đặc biệt với việc nêu bật sự khác nhau giữa chúng. Từ đó, nó vạch ra chính sách cai trị, chính sách dùng người, giáo dục và đào tạo con người cho phù hợp.</div><div style="text-align: justify;">Trong chế độ xã hội lúc đó, do sản xuất còn ở trình độ thấp nên sự phân công lao động chưa phát triển. Tuy nhiên, Nho giáo đã đưa ra nhiều kiểu phân loại con người dựa trên những cơ sở và tiêu chuẩn khác nhau, tạo ra những mẫu người khác nhau để phần nào đáp ứng được những yêu cầu nhất định của xã hội trong từng mặt, từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ, Nho giáo đã đưa ra những mẫu người như: bậc thánh, bậc thiện nhân, bậc hữu hằng, bậc thứ tri, bậc thành nhân, kẻ sĩ, kẻ cuồng và kẻ quyến… Nhưng, trong các kiểu phân loại đó, Nho giáo chú trọng nhất đến sự phân loại theo tiêu chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu nhân, trượng phu và thất phu; theo tiêu chuẩn chính trị thành hệ thống tước vị xã hội (gồm vua và hệ thống quan lại); theo tính chất công việc thành người lao lực và lao tâm. Ngoài ra, Nho giáo còn có cách phân loại theo năng lực, theo bản tính trời phú và theo sự tự rèn luyện của con người. Nhưng, xét đến cùng, tư tưởng bao trùm vẫn là đề cao sự phân loại theo tiêu chuẩn đạo đức, vì nó làm rõ được sự đánh giá về con người và khuynh hướng tư tưởng của họ. Cách phân loại đó khiến cho người ta hướng về người quân tử, xa lánh kẻ tiểu nhân, hướng con người đến cái thiện và xa lánh cái ác.</div><div style="text-align: justify;">Phân loại con người theo tiêu chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu nhân là cách phân loại đặc trưng nhất, được đề cập đến nhiều nhất trong Luận ngữ. Người ta thường nói, đạo Nho là đạo của người quân tử. Bởi vì, Nho giáo bàn rất nhiều về người quân tử, coi đó là mẫu người lý tưởng, toàn thiện, toàn mỹ nhất. Mọi sự cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức đều nhằm đạt đến danh hiệu cao quý ấy. Đó cũng chính là mục đích mà nền giáo dục Nho giáo hướng tới.</div><div style="text-align: justify;">Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đạo của người quân tử, như Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng của Phạm Quỳnh; Kinh Dịch - Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê; Trần Trọng Kim bàn về người quân tử trong cuốn Nho giáo, v.v.. Nhìn chung, các tác phẩm đó đã đề cập tương đối toàn diện về người quân tử và xem xét trên nhiều khía cạnh, nhiều phương diện khác nhau. Nhưng, mặt đối lập với nó là kẻ tiểu nhân thì lại chưa có được một sự quan tâm, tìm hiểu thích đáng, mặc dù việc nghiên cứu về kẻ tiểu nhân sẽ làm nổi bật hơn vai trò và tính cách của người quân tử.</div><div style="text-align: justify;">Lúc đầu, quân tử được hiểu là người có địa vị tôn quý, còn tiểu nhân là người dân thường, không có địa vị xã hội. Về sau, nghĩa của từ được dùng rộng ra và theo những tiêu chuẩn đạo đức là chính, khi đó quân tử được coi là người có đức hạnh cao quý, còn tiểu nhân là người có chí khí hèn hạ, thấp kém. Theo nghĩa đó, người quân tử dẫu bần cùng, khổ sở thì vẫn là người có chí khí quân tử. Kẻ tiểu nhân tuy có quyền cao, chức trọng, cũng vẫn là kẻ tiểu nhân. Khổng Tử nói rằng: "Ăn cơm thô, uống nước suông, co cánh tay mà gối đầu, niềm vui cũng có ở trong đó. Còn bất nghĩa mà được giàu sang thì đối với ta chỉ như phù vân" (Phan sơ tự, ẩm thủy, khúc quăng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hỹ. Bất nghĩa nhi phú tha quý, ư ngã như phù vân)(1). Tuy cùng học đạo thánh hiền, nhưng có người là Nho quân tử, có người lại là Nho tiểu nhân. Nho quân tử là những người học rộng mà có khí tiết, học đạo thánh hiền mà ăn ở theo bậc thánh hiền. Còn những người học rộng mà không có khí tiết, không có liêm sỉ, học đạo thánh hiền mà không noi gương các bậc thánh hiền thì gọi là Nho tiểu nhân. Với ý nghĩa đó, tiểu nhân không phải toàn là những người không có địa vị xã hội, không có học thức. Những người quyền cao chức trọng nhưng đạo đức kém cỏi, chí khí hèn nhát, mượn tiếng học đạo thánh hiền để mưu cầu danh lợi, luôn nói đạo đức nhưng lại làm toàn những chuyện bất nhân, bất nghĩa thì cũng vẫn chỉ là Nho tiểu nhân mà thôi. Bởi vậy, Khổng Tử khuyên học trò của mình là Tử Hạ chỉ nên làm nhà Nho quân tử, chứ đừng làm nhà Nho tiểu nhân. </div><div style="text-align: justify;">Sự phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân không chỉ ở địa vị xã hội, ở học thức, mà cái chính là ở phẩm chất đạo đức, ở phong cách sống và thái độ ứng xử, ở mục đích và lý tưởng sống. Trên phương diện này, tính cách của quân tử và tiểu nhân đối lập nhau hoàn toàn, không thể dung hoà được. Người quân tử luôn tôn cao phẩm giá của mình trong mọi hoàn cảnh. Còn kẻ tiểu nhân trong lúc thái quá hay trong cơn bất cập thường đánh mất nhân phẩm của mình. Trong Luận ngữ, Khổng Tử đã nhiều lần so sánh giữa quân tử với tiểu nhân. Qua sự so sánh đó, có thể rút ra những điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại người này như sau:</div><div style="text-align: justify;">Thứ nhất, quân tử là người chuyên cần học đạo thánh hiền, học rộng hiểu sâu, tôn trọng đạo "Trung dung". Còn kẻ tiểu nhân luôn đam mê theo vật dục, trông chờ, nhờ cậy vào người khác và luôn làm trái với đạo "Trung dung".</div><div style="text-align: justify;">Theo Khổng Tử, "Người quân tử trông cậy ở mình, tiểu nhân trông cậy ở người" (Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân)(2). Theo ông, con người trước hết phải lo tự mình tạo lập cho bản thân mình trên cơ sở của sự rèn luyện, tu dưỡng bản thân, chịu khó học tập, trau dồi về đạo lý và đức hạnh. Bản thân ông là một tấm gương sáng về sự kiên trì, nỗ lực học tập suốt đời. Ông coi đó là những điều kiện tiên quyết của sự thành đạt, nhưng cũng không bỏ qua sự tác động của những yếu tố khách quan, như "thiên thời, địa lợi, nhân hoà". Trên cơ sở những phẩm chất tốt đẹp và có chí khí, người quân tử tin tưởng ở bản thân mình, tự mình làm nên sự nghiệp, "dương danh hiển thân". Còn kẻ tiểu nhân, do ý chí nhu nhược nên luôn tìm cách dựa dẫm vào người khác để thoả mãn tham vọng của mình.</div><div style="text-align: justify;">Người quân tử do kiên trì, nỗ lực học tập đạo lý nên đức ngày càng cao, hiểu biết đạo lý ngày càng uyên thâm, hành động ngày càng thuần thục, hợp đạo lý. Nhờ đó, người quân tử lập được công danh, sự nghiệp, đạt được địa vị cao trong xã hội, đảm đương những công việc chính trị có hiệu quả. Còn kẻ tiểu nhân, vì lười biếng học tập, tu thân nên không thể tiến bộ được. Kẻ tiểu nhân làm việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân trước hết nên không được tín nhiệm, nếu có địa vị thì làm việc không có hiệu quả. Khổng Tử đã nhận xét rằng: "Quân tử thông đạt về nhân nghĩa, tiểu nhân thông đạt về tài lợi" (Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt)(3).</div><div style="text-align: justify;">Theo Khổng Tử, "Người quân tử thì trung dung, kẻ tiểu nhân thì phản trung dung" (Quân tử trung dung, tiểu nhân phản trung dung)(4). Người quân tử ham học đạo lý để tiến đức, sửa nghiệp, thông hiểu được cái lý lẽ cao xa, vi diệu, rồi chọn lấy cái vừa phải mà theo. Họ luôn giữ cái tâm của mình ở mức giữa (mức trung), không chao đảo, thiên lệch, không để cho ngoại cảnh cám dỗ mà sa vào tư dục. Khổng Tử từng ca ngợi đạo "Trung dung" thật là tuyệt vời. Nhưng ông cũng phải thừa nhận rằng, đã từ lâu, đạo ấy ít được người dân thực hiện. Người trí, người hiền thì chê mà chẳng giữ; người ngu, người thường thì ngán mà chẳng theo. Kẻ tiểu nhân vì chỉ biết cái lợi ích của bản thân nên biếng nhác, xao lãng cái đạo lý cao siêu đó và để cái tâm lệch khỏi đạo. Vì vậy, họ chỉ làm được những việc tầm thường, trái với đức trung dung.</div><div style="text-align: justify;">Thứ hai, quân tử trọng nghĩa, phân biệt phải, trái một cách khách quan, công minh, không tư vị. Người quân tử luôn thoải mái, không kiêu căng, hống hách. Còn kẻ tiểu nhân chỉ coi trọng lợi, có lòng tư vị, không chính trực, nên trong lòng luôn lo lắng, không thoải mái. Khổng Tử nói rằng: "Quân tử hiểu rõ nghĩa, tiểu nhân biết rõ lợi" (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi)(5). </div><div style="text-align: justify;">Đức "nghĩa" là một phạm trù đạo đức quan trọng trong đạo Nho, là một yếu tố cấu thành "ngũ thường". Mạnh Tử coi "nghĩa" là con đường to lớn hơn hết trong thiên hạ mà người quân tử, bậc đại trượng phu phải đi theo. Khổng Tử đánh giá rất cao đức "nghĩa" và chủ trương "Quân tử lấy nghĩa làm trên hết. Quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn" (Quân tử nghĩa dĩ vi thượng. Quân tử hữu dũng, nhi vô nghĩa, vi loạn)(6). Ông kêu gọi "Người quân tử đối với mọi việc trong thiên hạ, không quy định phải làm như thế nào, cũng không quy định không được làm như thế nào, chỉ xét hợp nghĩa thì làm" (Quân tử chi ư thiên hạ giã, vô thích giã, vô mịch giã, nghĩa chi dữ tỷ)(7). </div><div style="text-align: justify;">Nho giáo không đưa ra một định nghĩa kinh điển nào về "nghĩa". Tuỳ từng hoàn cảnh, đối tượng, mà việc giảng giải về "nghĩa" khác nhau. Tựu trung lại, có thể nói, phạm trù "nghĩa" bao gồm những cái cao thượng, chính trực, tốt đẹp và phù hợp với nhân và lễ. Làm điều "nghĩa" là để thi hành đạo nhân và giữ gìn lễ tiết. Bởi vậy, "nghĩa" được coi là cái gốc của mọi sự việc, còn người quân tử thì bao giờ cũng phải lấy "nghĩa" làm cái cốt yếu, cơ sở cho mọi suy nghĩ và hành động.</div><div style="text-align: justify;">Đối lập với "nghĩa" là "lợi". "Lợi" (được hiểu là lợi ích, quyền lợi) thường gắn liền với tư dục, tham vọng... của con người. Nho giáo cho rằng, chỉ có kẻ tiểu nhân mới tham lợi, vì lợi mà quên cả nhân nghĩa. Khổng Tử so sánh: "Quân tử nghĩ đến đức, tiểu nhân nghĩ đến chỗ ở; quân tử quan tâm đến phép tắc, tiểu nhân quan tâm đến ân huệ" (Quân tử hoài đức, tiểu nhân hoài thổ. Quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ)(8). Thực chất, cả hai cách xử thế "trọng nghĩa khinh lợi" hay "trọng lợi, coi thường nghĩa" đều bộc lộ những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý. Để có thể tồn tại được, người ta không thể không quan tâm đến quyền lợi của mình. Nhưng, nếu người ta quá đề cao nó, tuyệt đối hoá nó, coi lợi ích cá nhân là mục đích, là lẽ sống, là trên hết, thì lại là không đúng, là sa vào chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chỉ biết mình (như quan niệm của Dương Chu). Chủ nghĩa cá nhân sẽ sản sinh ra lối sống thực dụng như ở các nước tư bản hiện nay. Ngược lại, việc đề cao lợi ích xã hội, không quan tâm đến lợi ích cá nhân cũng sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại. Nó sẽ làm mất đi một động lực quan trọng của sự phát triển xã hội, đó là sự đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của cá nhân. Vì vậy, một quan điểm đúng đắn là phải biết kết hợp hài hoà giữa nghĩa và lợi, không thái quá, cũng không bất cập. Khổng Tử đã cảnh cáo rằng, những người chỉ làm theo lợi thì ắt có nhiều người oán thù. Ông cũng khuyên những người quân tử cầm quyền phải biết quan tâm đến lợi ích quốc gia, cũng như những lợi ích thiết thân của mỗi cá nhân.</div><div style="text-align: justify;">Do trọng nghĩa, khinh lợi, làm việc thì công minh, chính trực, không tư vị nên người quân tử lúc nào cũng khiêm nhường, không kiêu ngạo, tâm trạng luôn thư thái và có thể hoà mình được với mọi người. Họ không mưu cầu danh lợi cho riêng mình nên cũng không bon chen, cầu cạnh, đấu đá, tranh giành. Trong phép xử thế, họ luôn giữ đạo "Hành - Tàng", nước có đạo thì ra làm quan, nước không có đạo thì về ở ẩn. Bởi vậy, "Quân tử thì thản nhiên thư thái" (Quân tử thản đãng đãng)(9); "thư thái mà không kiêu căng" (Thái nhi bất kiêu)(10), "hoà hợp chứ không hùa theo" (Hoà nhi bất đồng)(11). Ngược lại, kẻ tiểu nhân vì tham lợi mà làm càn, ích kỷ hại nhân, kéo bè kéo đảng để thực hiện tham vọng của mình, nên tâm trạng luôn căng thẳng, không thoải mái. Kẻ tiểu nhân khi đắc chí thì kiêu căng, cao ngạo; khi thất thế thì lo sợ, tìm đủ mọi cách để dung thân. Vì vậy, "Tiểu nhân thì kiêu căng mà không thư thái" (Tiểu nhân kiêu nhi bất thái)(12) và "Tiểu nhân thường hay lo lắng, ưu sầu" (Tiểu nhân trường thích thích).</div><div style="text-align: justify;">Thứ ba, quân tử là người có đạo đức, nhân nghĩa và muốn phổ cập đạo đức ấy trong thiên hạ. Họ có khả năng làm được những việc lớn, biết dùng người hiền tài, làm việc ngay thẳng, chính trực. Lúc bình thường cũng như trong cơn nguy khốn, họ luôn giữ vững đạo lý. Còn kẻ tiểu nhân thì không thể giúp người làm việc tốt, gặp lúc khốn khó thì hay làm việc càn quấy. Khổng Tử nói rằng: "Người quân tử mà phạm điều bất nhân, thì có; nhưng chưa từng có kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân" (Quân tử nhi bất nhân giả, hữu hỹ phù. Vị tiểu nhân nhi nhân giả giã)(13). Trong thực tế, con người không phải lúc nào cũng sáng suốt, minh mẫn, không phạm sai lầm. Bởi vậy, người quân tử có lúc phạm vào điều bất nhân cũng là dễ hiểu, vì "nhân vô thập toàn". Còn kẻ tiểu nhân thì không thể làm được điều nhân đức, vì họ luôn bị cái tư dục chi phối, luôn ghen ghét và đố kỵ, không muốn ai bằng mình.</div><div style="text-align: justify;">Do có đức sáng và có lòng nhân, người quân tử muốn làm toả đức sáng trong thiên hạ. Họ sẵn sàng làm việc tốt và ngăn ngừa việc xấu, giúp mọi người sống đúng theo đạo "luân thường". Khổng Tử đã nhận xét rằng: "Người quân tử giúp người ta làm việc tốt, không giúp người ta làm việc xấu. Còn kẻ tiểu nhân thì trái lại" (Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị)(14). </div><div style="text-align: justify;">Quân tử là người có tài năng, có thể làm được những công việc lớn. Cái sáng suốt của nhà cầm quyền là biết dùng người đúng khả năng, đúng công việc. Đối với người có tài đức - ví như người quân tử - thì nhà cầm quyền không nên giao cho họ những công việc nhỏ nhặt, vụn vặt, mà nên giao cho họ những công việc quan trọng. Còn với kẻ tiểu nhân, do tâm lý vụ lợi nên không đảm trách được những công việc lớn, song có thể làm tốt công việc nhỏ. </div><div style="text-align: justify;">Dùng đúng người, đúng việc là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại, phát huy "sở trường", hạn chế "sở đoản" của mỗi người. Vì vậy, Nho giáo rất coi trọng thuật "dùng người". Theo Khổng Tử, kẻ làm quan tùy tài đức của mình mà thi thố giúp dân, giúp nước, chứ không chờ hội đủ các tài đức. Ông nói với Quý Khương Tử rằng, Trọng Do là người quả quyết, Tử Cống là người thông đạt lý sự, Nhiễm Hữu là người có nhiều tài nghệ… đều có thể ra làm quan được. Khổng Tử sợ nhất là những kẻ “ăn không ngồi rồi”, chẳng dụng tâm làm việc gì. Theo ông, đó là những con người mà xã hội cần phê phán và lên án. Khổng Tử còn nói rằng, người quân tử không bao giờ xa rời đạo, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Họ là những con người mà phú quý không thể cám dỗ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục được. Bản thân ông cũng đã nhiều lần gặp cảnh cùng khốn, nhưng đạo lý không hề suy suyển. Còn những kẻ tiểu nhân "cùng khốn thì làm càn" (Tiểu nhân cùng, tư lạm hỹ)(15).</div><div style="text-align: justify;">Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản về phương diện đạo đức và chính trị giữa quân tử và tiểu nhân. Đưa ra sự so sánh giữa hai loại người này, mục đích của Nho giáo là tôn cao địa vị, phẩm cách và vai trò của người quân tử, lấy đó làm mẫu người lý tưởng nhất. Mặt tích cực của sự phân loại đó là giúp con người hướng đến cái thiện, đến sự hoàn thiện phẩm giá và nhân cách, đồng thời phê phán và xa lánh cái xấu, cái ác, cái không hợp với đạo lý con người. Quan niệm này thể hiện rõ đạo làm người của Nho giáo. Tuy nhiên, sự phân loại thành quân tử và tiểu nhân cũng chỉ có tính chất ước lệ và tương đối, bởi để đạt đến mẫu người hoàn thiện, hoàn mỹ của Nho giáo không phải là giản đơn. Ngay cả những học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, như Nhan Hồi, Tử Cống, Tăng Sâm, Trọng Do, Nhiễm Cầu, v.v. cũng chỉ mới đạt được một số tiêu chuẩn nào đó của người quân tử mà thôi. Vì vậy, quan niệm của Nho giáo về người quân tử ít nhiều mang tính không tưởng, phi thực tế. Có những kẻ đã mượn danh quân tử, khoác áo Nho quân tử để làm những việc đồi bại, phi nhân tính. Ranh giới phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân cũng không phải là tuyệt đối và không thể vượt qua được. Mục đích giáo dục của Nho giáo là phổ cập những đức tính và phẩm chất của người quân tử cho tất cả mọi người. Để đạt được mục đích ấy, Nho giáo đã đề xuất nhiều biện pháp giáo dục khác nhau, nhưng quan trọng nhất vẫn là sự nỗ lực rèn luyện, phấn đấu của mỗi cá nhân. Chính vì vậy, Khổng Tử và các học trò của ông rất coi trọng việc "tu thân", tự sửa mình. Sự phân loại con người theo những tiêu chuẩn đạo đức như trên thể hiện rõ lập trường giai cấp của Nho giáo. Đó là, nó chỉ quan tâm tới việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của những con người thuộc tầng lớp trên của xã hội, những người có địa vị tề gia, trị quốc và có thể quyết định vận mạng của đất nước./.</div><div style="text-align: justify;"><br />
--------------------------------------------------------------------------------</div><div style="text-align: justify;">(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất.</div><div style="text-align: justify;"> (1) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ngữ văn Hán Nôm, t.1 (Tứ thư, bản dịch Luận ngữ, Thuật nhi). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.344.</div><div style="text-align: justify;">(2) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.499.</div><div style="text-align: justify;">(3) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.476.</div><div style="text-align: justify;">(4) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.101.</div><div style="text-align: justify;">(5) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.281.</div><div style="text-align: justify;">(6) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.532.</div><div style="text-align: justify;">(7) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.281.</div><div style="text-align: justify;">(8) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.281.</div><div style="text-align: justify;">(9) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.347.</div><div style="text-align: justify;">(10) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.448.</div><div style="text-align: justify;">(11) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.447.</div><div style="text-align: justify;">(12) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.448.</div><div style="text-align: justify;">(13) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.473.</div><div style="text-align: justify;">(14) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.426.</div><div style="text-align: justify;"> (15) Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sđd., t.1, tr.496</div><div style="text-align: right;"><strong><span style="font-size: x-small;">TRẦN ĐÌNH THẢO </span></strong></div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-21077379071609782752010-10-08T03:34:00.000-07:002010-10-08T03:34:49.221-07:00IMMANUEL KANT TỪ TRIẾT HỌC PHÊ PHÁN ĐẾN NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNXdUy_OdPGfhocFBUtGTJYxcubGlpRF-lYij5Jls5JpXNloTcDa-9KB3L93etvVWcMleGmxSVwdJHSjTuSR2hDkj1bArmkbZdPEiC2usWZfQh0Yyxiz1GKM4v22bSfsijwLApGtW0oVM/s1600/immanuel-kant.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNXdUy_OdPGfhocFBUtGTJYxcubGlpRF-lYij5Jls5JpXNloTcDa-9KB3L93etvVWcMleGmxSVwdJHSjTuSR2hDkj1bArmkbZdPEiC2usWZfQh0Yyxiz1GKM4v22bSfsijwLApGtW0oVM/s320/immanuel-kant.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Mặc dù ở giai đoạn tiền phê phán (trước 1770), I. Kant đã xuất hiện như một học giả lỗi lạc trong các lĩnh vực thiên văn học, địa chất học, vật lý học, v.v..., song về triết học, mà trong đó có nhân học triết học, thì phải tới giai đoạn sau - giai đoạn thường được gọi là phê phán, I. Kant mới xuất hiện như là một nhân vật "khổng lồ". Với ba tác phẩm có tựa đề "phê phán"... ("Phê phán lý tính thuần tuý" - 1781, "Phê phán lý tính thực tiễn" - 1788, và "phê phán năng lực phán đoán" - 1790), triết học I. Kant - một kiểu triết học có tư duy độc đáo trong văn hoá Tây Âu, đã trở thành điểm khởi đầu của một dòng triết học ảnh hưởng to lớn đến lịch sử văn hoá nhân loại - triết học cổ điển Đức. Và, I. Kant là thuỷ tổ của dòng triết học này. </em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Khi nghiên cứu kho tàng tư tưởng đồ sộ của I. Kant, người ta đã nhận thấy, gần như ở tất cả các lĩnh vực thuộc phạm vi mà ông đã từng quan tâm, I. Kant đều để lại những di sản quý giá mà đến nay hậu thế vẫn tiếp tục khai thác. Chẳng những thế, cũng gần như ở tất cả các lĩnh vực vực đó, I. Kant đều có những phát kiến tầm cỡ mở đường cho sự phát triển tiếp theo của khoa học. Trong lĩnh vực triết học, đó là triết học phê phán với học thuyết về vật tự nó, về các hình thức tiên thiên của nhận thức, về tính khách quan của tri thức… </div><div style="text-align: justify;">Trong lĩnh vực đạo đức học, đó là học thuyết về đạo đức học tiên nghiệm với hệ thống các phạm trù đạo đức tiên nghiệm. Trong lĩnh vực tâm lý học, đó là học thuyết về cái tôi đang tư duy, về sự thống nhất siêu nghiệm của tri giác… Trong lĩnh vực thiên văn học, đó là giả thuyết Kant-Laplace về nguồn gốc vũ trụ, một giả thuyết rất gần với quan niệm về vụ nổ Bigbang sau này, v.v… Điều thú vị là, logic trong sáng tạo của I. Kant ở tất cả các lĩnh vực đó đều bắt nguồn từ việc phê phán cách tiếp cận giáo điều đương thời, chỉ ra sự mâu thuẫn giữa cái duy lý và cái kinh nghiệm trong nhận thức truyền thống; từ đó, I. Kant triển khai quan niệm của mình về triết học phê phán, về nhận thức tiên nghiệm. Cuối cùng, mọi bàn luận đều được lý giải theo quỹ đạo của vấn đề con người và nhận thức con người. Con người với tất cả những khía cạnh phong phú của nó, từ tồn tại sinh học đến ý chí tự do, từ lý tính thuần túy đến lý tính thực tiễn, từ logic tiên thiên đến đạo đức tiên nghiệm, từ cá nhân hữu hạn đến tộc loại siêu cá nhân… - tất cả đều được mổ xẻ ở mức độ rất sâu và thấm đượm tinh thần nhân đạo. (Dĩ nhiên, theo cách của I. Kant). Với I. Kant, con người, đặc biệt con người nhân loại đã chiếm một khối lượng đáng kể trong các luận bàn của ông. "ý niệm nhân loại", theo I. Kant, cái đã bị đánh mất ở nhiều người, phải một lần nữa trở nên thiêng liêng đối với con người - "Tuyên bố vừa kỳ lạ vừa chói tai" này không phải được phát đi từ thế kỷ XX, mà từ Immanuel Kant . Nhưng có lẽ đó vẫn chưa phải là điều thú vị nhất. Khi nghiên cứu I. Kant, với chúng tôi, điều thú vị nhất là vai trò của I. Kant đối với ngành nhân học (anthropology). </div><div style="text-align: justify;">Thời gian gần đây, khi nhân học được chú ý như một khoa học hiện đại (và có phần thời thượng nữa) về con người, các nhà nghiên cứu nhân học mới giật mình nhận ra rằng, mặc dù vẫn coi M. Scheler là ông tổ của nhân học, song từ rất sớm trước M. Scheler, chính I. Kant chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học độc lập . I. Kant coi nhân học là một ngành có đối tượng riêng, có phương thức nghiên cứu riêng, phương thức vượt ra khỏi khuôn khổ của các phương thức nhận thức đã biết. Cũng chính là từ triết học phê phán, khi phân loại các vấn đề nhận thức cơ bản mà con người buộc phải giải đáp, I. Kant đã đi đến khẳng định vị trí của nhân học, ngành khoa học phải trả lời câu hỏi muôn thuở - con người là gì. Và, không biết lúc đó I. Kant có hình dung nhân học lại phát triển một cách mạnh mẽ và thu hút sự quan tâm của con người đến như hiện nay hay không. </div><div style="text-align: justify;">1. Sự ra đời của triết học phê phán</div><div style="text-align: justify;">Thực ra, không phải chỉ vì các tác phẩm cơ bản của I. Kant ở giai đoạn thứ hai trong cuộc đời sáng tạo của ông có tựa đề là "phê phán" mà giai đoạn này được gọi là giai đoạn phê phán. (Đây là điểm chưa thật chính xác mà một số tài liệu viết về I. Kantơ hiện vẫn còn lý giải như thế). Vấn đề là ở chỗ, triết học I. Kant mang tinh thần phê phán hết sức rõ rệt. I. Kant đã phê phán một cách trực diện và không thương tiếc toàn bộ "linh hồn" của triết học tiền bối, bao gồm cả triết học kinh nghiệm luận của J. Loke, G. Berkeley, D. Hume và cả triết học duy lý của R. Descartes, B. Spinoza, G. Leibniz. Sự phê phán của ông được dựa vào một hệ thống tư tưởng riêng biệt và hết sức độc đáo. Hơn thế nữa, sự phê phán đó cũng phải coi là thật sự có hiệu quả, nếu so với những phê phán đã từng tồn tại trong lịch sử triết học. </div><div style="text-align: justify;">Như đã biết, trước I. Kant, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm thống trị trong triết học. I. Kant nhìn thấy rất rõ những điểm hợp lý trong các triết học đó, song ông còn thấy rõ hơn tính chất giáo điều của triết học duy lý và tính chất hoài nghi thiếu cơ sở trong triết học theo kinh nghiệm luận. Những hạn chế này, theo I. Kant, đã trở thành căn bệnh "trầm kha" trong lĩnh vực tư tưởng ở thời đại của ông, làm cho triết học lúc đó rơi vào tình trạng phiến diện và què quặt. Trước thực trạng ấy, I. Kant đặt cho mình nhiệm vụ phân tích có phê phán năng lực nhận thức của con người, giải phóng khỏi nhận thức luận cách tiếp cận đang thống trị lúc đó, mà theo I. Kant là cách tiếp cận giáo điều. Với chủ trương xây dựng một triết học mới thông qua con đường phê phán bằng vũ khí mới của sự phê phán, ở triết học I. Kant đã nảy sinh một cách tiếp cận riêng mà ít lâu sau người ta gọi là cách tiếp cận phê phán. Cũng chính vì thế mà triết học I. Kant còn được gọi là triết học phê phán (Critical philosophy). Đây chính là một nét độc đáo của triết học I. Kant; bởi lẽ, triết học nào cũng ít nhiều sử dụng vũ khí phê phán, nhưng phê phán được nâng thành một phương thức xây dựng tư tưởng, được hệ thống hóa thành một cách tiếp cận riêng thì chỉ có ở I. Kant.</div><div style="text-align: justify;">Nguyên tắc cơ bản của cách tiếp cận phê phán và cũng là của toàn bộ triết học phê phán đã được I. Kant nêu trong phần mở đầu xuất bản lần thứ hai tác phẩm "Phê phán lý tính thuần tuý" (The Critique of Pure Reason). I. Kant viết: "Cho đến nay, người ta thường cho rằng hiểu biết của ta cần phải phù hợp với đối tượng. Tuy nhiên, mọi cố gắng thông qua khái niệm để hiểu biết một cái gì đó tiên thiên về đối tượng đều đã kết thúc một cách không thành công. Bởi vì, tri thức của chúng ta về đối tượng đã không được mở rộng. Do đó, cần phải giải thích: phải chăng chúng ta sẽ không giải quyết được một cách tốt hơn nhiệm vụ của siêu hình học, nếu như ta xuất phát từ giả định rằng, đối tượng cần phải phù hợp với nhận thức của ta. Mà điều này lại đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi về khả năng hiểu biết một cách tiên thiên về đối tượng - tri thức cần phải xác lập về đối tượng một cái gì đó sớm hơn là nó đem lại cho ta" .</div><div style="text-align: justify;">Rõ ràng, tính chất duy tâm của nguyên tắc mà I. Kant nêu ra là điều không phải bàn cãi. Chẳng những cách đặt vấn đề của I. Kant là duy tâm, mà hơn thế nữa, I. Kant còn cố tình duy tâm tới mức cực đoan để diễn đạt một điều nan giải có thật trong nhận thức: cô lập quá trình nhận thức ở bất cứ điểm nào của nó, chúng ta cũng đều có thể rơi vào sai lầm; và (theo I. Kant) không có quá trình nhận thức nào bắt đầu từ con số không. Bởi vậy, để nhận thức được đối tượng, phải giả định rằng "đối tượng cần phải phù hợp với nhận thức" chứ không phải ngược lại. Bằng cách đó, tri thức buộc phải "xác lập về đối tượng một cái gì đó" (hình ảnh giả định về đối tượng) trước khi đối tượng được phản ánh trong nhận thức ("sớm hơn là nó đem lại cho ta"). Nói thế mới thấy được rằng, lối nhận thức có trước kinh nghiệm (a priori) này quả là có hạt nhân hợp lý của nó. </div><div style="text-align: justify;">Cái lộ ra ở đây là cách đặt vấn đề của I. Kant là hết sức độc đáo. Bởi lẽ, như đã biết, vào thời của I. Kant, hai khuynh hướng cơ bản của triết học Châu Âu (chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm) mâu thuẫn gay gắt với nhau và thể hiện ra ở chính mâu thuẫn giữa cái duy lý và cái kinh nghiệm. I. Kant muốn khám phá thực chất của mâu thuẫn này để chỉ ra nguyên nhân sâu xa của tình trạng phiến diện và giáo điều của triết học đương đại. Trong triết học I. Kant, sự đối lập giữa cái duy lý và cái kinh nghiệm là đối tượng được ông chú tâm giải quyết trong mọi vấn đề, từ nhận thức vũ trụ đến nhận thức con người, từ logic học đến đạo đức học, từ khái niệm tiên thiên đến khái niệm nảy sinh sau kinh nghiệm (a posteriori).</div><div style="text-align: justify;">Điều vĩ đại ở I. Kant là ông đã hoàn toàn vượt lên trên và không bị lôi cuốn vào cách giải quyết mâu thuẫn nói trên theo lối tranh cãi kinh viện hoặc thuần túy kinh nghiệm như các nhà triết học đương thời. I. Kant đã bằng chính tư duy phê phán để lập cho mình một hệ thống tư tưởng riêng, với cách hiểu rất dị thường và đúng là có một không hai về các phạm trù: Với I. Kant, không gian, thời gian, nhân quả, các phạm trù logic, các phạm trù đạo đức… hóa ra đều là những "hình thức" có sẵn trong nhận thức, con người sử dụng chúng để làm ra kinh nghiệm chứ không phải chúng được tạo ra từ kinh nghiệm. Vật tự nó (Thing in Itself) là một sáng tạo kiệt xuất của nhận thức loài người thông qua một bộ óc uyên bác cụ thể là Immanuel Kant .</div><div style="text-align: justify;">Như chúng ta đã biết, trong triết học Trung cổ và triết học Phục hưng, tâm điểm của hầu hết các luận thuyết triết học là học thuyết về tồn tại. Người ta chú ý đặc biệt đến khía cạnh bản thể luận trong nghiên cứu triết học. Chỉ bắt đầu từ thời kỳ Cận đại, các nhà triết học duy vật Anh, Pháp,... mà tiêu biểu là F. Bacon, R. Descartes, G. Berkeley, D. Hume... mới chuyển trọng tâm của triết học vào những vấn đề nhận thức luận. Tuy vậy, trong số các vấn đề quan trọng của lý luận nhận thức, vấn đề về mối tương quan, sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể nhận thức vẫn chưa được chú ý nhiều trong triết học trước I. Kant. Lúc đó, người ta hướng sự phân tích và khám phá vào khách thể của nhận thức.<br />
ở triết học Cận đại thời kỳ trước I. Kant, tính chủ quan trong nhận thức thường được xem như cái ngăn trở, hoặc lực kìm hãm ... đối với khả năng nhận thức của con người trên con đường kiếm tìm chân lý. Người ta cho rằng chính cái chủ quan đã xuyên tạc và làm mờ đi trạng thái hiện thực của thế giới vật thể xung quanh con người (chẳng hạn, nếu ta nhớ lại quan niệm về các Idole trong triết học F. Bacon). I. Kant, cố nhiên cũng tôn trọng những đặc thù của khách thể nhận thức và thấy rõ tác động tiêu cực của tính chủ quan đối với sự nghiên cứu. Nhưng theo I. Kant, đặc thù khách quan của khách thể nhận thức, không chỉ có khả năng quy định cách thức nhận thức mà đồng thời, nó còn có thể kiểm tra năng lực nhận thức của con người. I. Kant không thoả mãn với những quan niệm đã có về tính quy định của khách thể nhận thức. Ông tự đặt ra cho mình nhiệm vụ phải phân biệt các thành phần khách quan với các thành phần chủ quan trong cấu trúc của tri thức ở chính chủ thể theo các trình độ khác nhau của nhận thức. Xuất phát từ đó, một lần nữa I. Kant đã giải thích lại khái niệm chủ thể nhằm tìm ra cách hiểu sâu sắc hơn và cũng độc đáo hơn về nó.<br />
I. Kant đề xuất sự khác nhau giữa hai trình độ của sự nhận thức ở ngay bản thân chủ thể nhận thức: trình độ kinh nghiệm và trình độ siêu nghiệm (transcendent). ở trình độ kinh nghiệm, I. Kant xem xét những đặc thù trong tâm sinh lý cá nhân của con người và sự tác động của chúng đến nhận thức, đến kết quả nhận thức. ở trình độ siêu nghiệm, I. Kant cho rằng nhận thức của con người đã vượt qua sự quy định của những đặc thù cá nhân để hướng tới một bản nguyên siêu cá nhân (transperson - trên cá nhân) nào đó. Với trình độ này, chủ thể nhận thức hiện ra là đại biểu và đại diện cho loài của mình - con người với tính cách là đại biểu của loài. Như vậy, ngay ở mỗi cá nhân, quá trình nhận thức cũng bị quy định và luôn tự phát hướng tới cái siêu nghiệm. Đặc điểm này không phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt của từng cá nhân, mặc dù nó thể hiện ở từng cá nhân; đặc điểm này mang tính khách quan và là biểu hiện của tính tộc loại của con người.</div><div style="text-align: justify;">Bằng cách đó, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, I. Kant đã đặt ra vấn đề về tính khách quan ở chủ thể nhận thức.</div><div style="text-align: justify;">Trong tác phẩm "Phê phán lý tính thuần tuý", một trong những nội dung cơ bản của triết học lý luận được I. Kant nêu ra là: tri thức khoa học chân chính có khả năng đến đâu? Hay, nói theo cách nói của ông là "các mệnh đề tổng hợp tiên nghiệm xuất hiện như thế nào?" . Với cách đặt vấn đề này, I. Kant muốn tìm xem tư duy khoa học duy lý có những hạn chế của nó hay không? Và để trả lời, I. Kant cụ thể hoá vấn đề này thành ba nội dung riêng biệt: Khả năng của toán học? Khả năng của vật lý học (khoa học tự nhiên)? và, khả năng của siêu hình học (triết học)?</div><div style="text-align: justify;">Với ba lĩnh vực tri thức này, I. Kant đã nêu ra ba định hướng quan niệm khác nhau về khả năng của chúng. Ông trình bày quan niệm của mình về tính đặc thù trong khả năng phản ánh, trong cách thức thể hiện thế giới của các khoa học này. I. Kant tin tưởng sâu sắc vào tính chất khoa học của toán học và các khoa học tự nhiên. Ông tìm cách giải thích tính khoa học của các khoa học đó trong sự chi phối và quy định của tư duy kinh nghiệm và của nhận thức ở trình độ kinh nghiệm. Nhưng với siêu hình học, tức là với triết học thì I. Kant đặt câu hỏi liệu siêu hình học nói chung có khả năng tồn tại như là một khoa học hay không? Và, điều thú vị là ông đã trả lời phủ định đối với câu hỏi này. I. Kant viết: "Siêu hình học từ trước tới giờ luôn ở trong tình trạng bấp bênh không đáng tin cậy và mâu thuẫn chỉ bởi một nguyên do là nhiệm vụ (xác định khả năng của tri thức khoa học - HSQ), và thậm chí cả việc tìm ra sự khác biệt giữa các suy lý phân tích và tổng hợp cũng vẫn chưa được ai bàn đến. Sự bền vững hay bấp bênh của siêu hình học là tuỳ thuộc vào sự giải quyết nhiệm vụ này hay ở việc chứng minh rằng trên thực tế, nói chung không thể nào làm rõ được nhiệm vụ trên".</div><div style="text-align: justify;">Về tính xác thực của tri thức khoa học, I. Kant cho rằng, xác thực nghĩa là có thể tin cậy được và đó chỉ có thể là tri thức khách quan, tức là mang tính khách quan. Tính khách quan, theo I. Kant, đồng nhất với tính phổ quát và tính tất yếu. Do vậy, tri thức nếu muốn đạt tới sự xác thực thì nó cần phải đạt tới trình độ tất yếu và phổ quát, có giá trị chung mang tính phổ biến (I. Kant đồng nhất cái khách quan với cái có giá trị chung mang tính phổ biến).</div><div style="text-align: justify;">Tính khách quan của tri thức, theo I. Kant, được quy định bởi cấu trúc của chủ thể siêu nghiệm, bởi những thuộc tính và phẩm chất siêu cá nhân của chủ thể nhận thức. I. Kant lý giải, mỗi chủ thể đang nhận thức, trong bản tính của mình, luôn vốn có một trình độ nhất định của nhận thức thiên bẩm (tiền kinh nghiệm) thể hiện trong các hình thức thiên bẩm của nhận thức. Các hình thức nhận thức thiên bẩm này chính là trình độ đầu tiên của quá trình nhận thức tiếp cận đến hiện thực (I. Kant đã phân tích rất kỹ về điều này thông qua các khái niệm không gian, thời gian, v.v... - mà ông coi là những hình thức chủ quan, tiền kinh nghiệm của nhận thức cảm tính. I. Kant phân biệt, không gian là hình thức bên ngoài, còn thời gian là hình thức bên trong của kinh nghiệm cảm tính. Các biểu tượng không gian, theo ông, là cơ sở của các tri thức hình học, thời gian - của các tri thức số học và đại số.</div><div style="text-align: justify;">Vấn đề là ở chỗ, những tiền đề làm nên tính xác thực của tri thức, theo I. Kant, được tạo ra bởi những hình thức tiền kinh nghiệm của nhận thức cảm tính. Đó là trình độ thứ nhất của nhận thức. Trong quá trình nhận thức, việc hiện thực hoá những tiền đề đó lại được thực hiện nhờ khả năng nhận thức ở trình độ thứ hai - trình độ nhận thức lý tính. ở trình độ này, lý trí - đó chính là tư duy với hệ thống các khái niệm và các phạm trù của mình - đã thực hiện các phán đoán để xây dựng đối tượng nhận thức. Đối tượng không phải là nguồn gốc của tri thức về nó dưới dạng các khái niệm, phạm trù. Mà ngược lại, chính các hình thức của lý trí, tức là các khái niệm và các phạm trù đã tạo nên, đã kiến tạo nên đối tượng của nhận thức. Theo lập luận của I. Kant thì đó chính là cơ sở khiến cho chúng ta có thể đồng ý hay phản đối ý kiến của người khác về đối tượng của sự nhận thức. Hơn thế nữa, đó còn là lý do giải thích tại sao con người lại chỉ có thể hiểu được những gì do nó sáng tạo ra, tức là hiểu được những gì nằm trong phạm vi bao quát của hệ thống phạm trù tiên nghiệm vốn có ở con người. Vượt ra khỏi giới hạn đó, hiện thực thuộc về "thế giới vật tự nó". Với I. Kant, khái niệm và phạm trù sở dĩ mang tính phổ quát và tất yếu, trước hết là vì chúng không phụ thuộc vào ý thức cá nhân (được hình thành bởi kinh nghiệm). Chúng chính là những hình thức siêu nghiệm của nhận thức. Tri thức, vì vậy, theo I. Kant, luôn luôn là cơ sở (là chỗ dựa) cho chính nó. Nó có sẵn dưới dạng các tri thức siêu nghiệm, nó được làm giàu thêm, được phát triển thêm cũng nhờ chính bản thân các tri thức kinh nghiệm và siêu nghiệm. Toàn bộ quá trình đó nằm ngoài và không phụ thuộc vào ý thức cá nhân, cá thể. Theo nghĩa ấy, I. Kant cho rằng tri thức có tính khách quan.</div><div style="text-align: justify;">Trong quan niệm của I. Kant, lý tính điều chỉnh tri giác của con người trong suốt quá trình nhận thức, dẫn dắt tri giác vào khuôn khổ của các hình thức tất yếu và phổ quát của nhận thức. Bằng cách đó, lý tính quy định tính khách quan của tri thức. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, cái gì đã tạo ra khả năng đó của lý tính? Tại sao lý tính lại có thể đưa tri giác vào các hình thức tiên nghiệm như vậy? Và, cuối cùng thì cái gì đã gắn kết các phạm trù và các khái niệm vào một chỉnh thể trong hiện thực? I. Kant đã trả lời các câu hỏi này theo quan điểm hết sức nhất quán của riêng mình: tất cả những thao tác đó là do đặc thù của chủ thể quy định. Theo I. Kant, cơ sở sâu xa tạo nên sự thống nhất trong nhận thức luận, mà nếu thiếu sự thống nhất đó thì lý tính không thể thực hiện được chức năng của nó - đó là hành vi tự nhận thức của chủ thể: cái tôi đang tư duy. I. Kant gọi hành vi này là sự thống nhất siêu nghiệm của tri giác hay, sự kết hợp của các tri giác nằm ở ngoài giới hạn của kinh nghiệm.</div><div style="text-align: justify;">Như vậy, lý tính, theo I. Kant, cũng là khả năng của chủ thể nhưng ở trình độ rất cao. Khả năng này quy định và điều khiển mọi hoạt động tư duy của con người, thậm chí còn đặt ra mục đích nhận thức cho con người. Còn tư tưởng, trong quan niệm của I. Kant, đó là bản chất siêu cảm giác của sự tồn tại hiện thực của lý tính. Trong nhận thức, dạng sơ đẳng của tư tưởng được hiện hình bằng những quan niệm về mục đích, về nhiệm vụ mà nhận thức của ta tự đặt cho nó và hướng tới nó. Thông qua tư tưởng, lý tính thực hiện chức năng điều chỉnh đối với hoạt động nhận thức và đánh thức chủ thể vượt ra ngoài giới hạn của kinh nghiệm, vươn tới tri thức tuyệt đối.</div><div style="text-align: justify;">Điều cần suy nghĩ ở đây là, có lẽ trong tâm tưởng sâu xa của mình, I. Kant hoàn toàn không hề đánh giá thấp khả năng nhận thức của con người, mặc dù ông cho rằng các khái niệm và các phạm trù, tức là những hình thức của tư duy không có khả năng làm cho chủ thể vượt ra ngoài giới hạn của kinh nghiệm. Về hình thức thì quan niệm này dường như hạ thấp sức mạnh của tư duy con người, nhưng về thực chất thì quan niệm này lại cho phép nhìn thẳng vào những nan giải to lớn của nhận thức và làm lộ ra mâu thuẫn vốn có thuộc về bản chất của tư duy: trong tư duy, mọi quá trình, mọi vận động… bên ngoài đều được phản ánh dưới dạng các hình thức logic đứng im, chết cứng. Dĩ nhiên, I. Kant là một đại biểu lỗi lạc của chủ nghĩa bất khả tri, nhưng bất khả tri của I. Kant, theo chúng tôi, là bất khả tri ở điểm tận cùng của nhận thức, là bất khả tri của những tham vọng nhận thức và cải tạo không có điểm dừng, không có giới hạn đối với thế giới (những người theo thuyết anthropocentrism ở châu Âu, từ thời cổ đại đến tận ngày nay, vẫn chủ trương coi con người là trung tâm, không thừa nhận giới hạn của sự nhận thức và cải tạo thế giới ). Có thể coi đây cũng là một antinomie thú vị, nếu tính đến những thành tựu vĩ đại trong nhận thức mà chính I. Kant đã đạt được trong cuộc đời khoa học của mình. Một người được xếp vào hàng ít ỏi những cây đại thụ của thuyết bất khả tri, nhà triết học sáng tạo ra khái niệm "vật tự nó" làm cho thuyết bất khả tri bị đẩy đến tận cùng của sự cực đoan, nhưng lại có những phát kiến tầm cỡ "dẫn đường cho nhân loại" cả trong triết học, trong khoa học tự nhiên và trong khoa học về con người. </div><div style="text-align: justify;">Bởi thế, những quan niệm của I. Kant về ảo ảnh và về mâu thuẫn mà lý trí mắc phải, về một phương diện nhất định, phải được hiểu là cách thể hiện độc đáo những ước mơ, khao khát của ông hướng tới trình độ sâu sắc hơn nữa của nhận thức con người. Theo chúng tôi, rõ ràng I. Kant quá nhạy cảm và ý thức quá rõ về những giới hạn có thật đối với tư duy và nhận thức. Tuy nhiên, dù chân thành bao nhiêu với việc vạch ra giới hạn nhận thức của con người I. Kant cũng đã từng bị đánh giá là chơi trò "mập mờ nước đôi" (chữ dùng của Albrecht Rau, 1882): dung hoà, thoả hiệp trong nhận thức. Sự phê phán gay gắt (những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) đối với I. Kant từ cả hai phía tả và hữu (duy vật và duy tâm) rõ ràng chẳng phải là chuyện khó hiểu. Hoá ra là, càng muốn vượt lên trên cả hai đường lối triết học bao nhiêu, I. Kant lại càng nhận được kết quả trái với mong muốn của mình bấy nhiêu.</div><div style="text-align: justify;">2. Nhân học với khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện</div><div style="text-align: justify;">Về lĩnh vực nhận thức con người, khi nghiên cứu triết học I. Kant, người ta cũng có thể thấy rất rõ thái độ trân trọng của ông đối với con người và lý trí con người. Chỉ có điều, là một nhà triết học độc đáo nên việc đề cao con người ở I. Kant cũng rất khác biệt so với các nhà tư tưởng khác. Theo I. Kant, "thế giới vật tự nó" là thế giới dành cho cảm giác. </div><div style="text-align: justify;">Do vậy, thế giới đó đóng kín đối với lý tính và đối với khoa học. Tuy thế, theo cách giải thích của I. Kant, đối với "thế giới vật tự nó", con người không phải là tuyệt nhiên không thể vươn tới được. Bởi lẽ, con người, trong quan niệm của I. Kant, luôn sống trong cả hai thế giới - thế giới mà cảm giác có thể đạt tới và thế giới mà trí tuệ có thể đạt tới (còn gọi là thế giới khả giác và thế giới khả niệm). </div><div style="text-align: justify;">Thế giới mà cảm giác có thể đạt tới, theo I. Kant, đó là giới tự nhiên. Còn thế giới mà trí tuệ đạt tới - đó là thế giới của tự do. Tự do trong quan niệm của I. Kant là một trạng thái mà ở đó, con người hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nguyên nhân tiền định nào đó vốn có trong thế giới có thể cảm giác được. Tự do là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động và hành vi của con người không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối bởi tính thực tiễn. Lý tính được gọi là thực tiễn, theo I. Kant, là lý tính mà ý nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi con người. Động lực của lý tính thực tiễn không phải là tư duy, mà là ý chí của con người. I. Kant gọi ý chí của con người là vương quốc của sự tự trị. ở đây, ý chí của con người được quy định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những nguyên nhân thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc về Thượng đế. Theo I. Kant, ý chí của con người được quy định bởi những quy luật, luật lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt ra cho bản thân mình.</div><div style="text-align: justify;">Như đã nói ở trên, chính I. Kant chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học độc lập. Trong so sánh với các lĩnh vực tri thức đã được xác lập, I. Kant coi nhân học, mà trước hết là nhân học triết học (philosophical anthropology) là một ngành có đối tượng riêng của mình, có phương thức nghiên cứu riêng của mình. Theo P.S. Gurevich, “nhà nghiên cứu sâu sắc hơn cả trong tư tưởng Nga hiện đại về vấn đề con người” , thì "I. Kant là người đầu tiên của nền triết học châu Âu khẳng định rằng, con người là một thực thể độc nhất vô nhị có khả năng suy tư một cách riêng biệt và độc đáo. Con người - là khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện triết học. Để khám phá bí ẩn của con người, cần phải có những công cụ không tầm thường và độc lập. Trong ý nghĩa đó, nhân học triết học đối lập với khu vực tri thức triết học truyền thống - bản thể luận (học thuyết về tồn tại), logic học, lý luận nhận thức, lịch sử triết học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội, triết học lịch sử”. </div><div style="text-align: justify;">Tư tưởng đề cao tính đặc thù của con người, coi con người là một thực thể bí ẩn, độc nhất vô nhị, vượt ra ngoài khả năng khám phá của các công cụ nhận thức truyền thống, kể cả bản thể luận và nhận thức luận, kể cả logic học, đạo đức học và thẩm mỹ học, kể cả triết học tự nhiên, triết học xã hội và triết học lịch sử… là một tư tưởng rất độc đáo, trước I. Kant chưa từng được phát biểu một cách tường minh trong kho tàng tri thức nhân loại (Diogiene và Socrate tuy dường như cũng có nói đến sự bí ẩn của đời sống con người, song các ông hướng tới khám phá sự bí ẩn đó bằng các công cụ duy lý của tư duy trừu tượng). Với I. Kant, tính bí ẩn và độc nhất vô nhị của sự tồn tại người được khẳng định là vượt ra ngoài khuôn khổ của nhận thức duy lý; bởi vậy, nhận thức con người là nhằm luận giải những hiện tượng cá nhân đầy bản sắc, những hành vi và hoạt động phức tạp của con người trong các thiết chế xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử. Tư tưởng này về sau được S. Kierkegaard, F. Dostoievski, M. Heidegger, H. Rickert, M. Scheler, J. Sartre cùng một số nhà triết học hiện sinh khác khai thác và phát triển thêm làm lộ ra rõ hơn tính hợp lý của nó. Với sự ứng dụng ngày càng sâu hơn của thông diễn học (heurmernetics), tư tưởng này càng được thể hiện và được chứng minh là một hướng đi rất chủ yếu trong nhận thức con người với tất cả tính phức tạp của đối tượng này - con người, một thực thể vừa sinh học vừa xã hội, vừa cá nhân vừa tộc loại, vừa vật chất trần tục vừa tinh thần thiêng liêng… <br />
Vấn đề là ở chỗ, với I. Kant, nhận thức con người cũng có nghĩa là nhận thức thế giới; chỉ có thông qua con người, các vấn đề của nhận thức thế giới mới được giải quyết. I. Kant viết: "Mục tiêu của tất cả những thành tựu văn hoá mà con người học được là ứng dụng những tri thức và những kinh nghiệm đã thu nhận được vào thế giới. Nhưng đối tượng quan trọng nhất trong thế giới mà những tri thức này có thể ứng dụng được - đó là con người, chừng nào con người còn là mục đích tự thân cuối cùng" . Khi xác định nhiệm vụ cho triết học, I. Kant tự đặt cho riêng mình 4 câu hỏi mà về sau người ta hiểu đó là 4 nội dung cơ bản của toàn bộ nhận thức con người:</div><div style="text-align: justify;">1. Tôi có thể biết gì?<br />
2. Tôi có thể làm gì?<br />
3. Tôi có thể hy vọng gì?<br />
4. Con người là gì?</div><div style="text-align: justify;">Theo I. Kant, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ nhất thuộc về nhận thức luận. Câu hỏi thứ hai dành cho đạo đức học. Câu hỏi thứ ba dành cho tôn giáo và thần học, đòi hỏi tôn giáo phải cắt nghĩa những hy vọng thực tế và phi thực tế của con người. Và cuối cùng, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ tư thuộc về nhân học - nhân học, mà ngay trong cách đặt vấn đề của I. Kant cũng đã được phân biệt rạch ròi với nhận thức luận, với đạo đức học và với tôn giáo. Rõ ràng, đây là một kiểu phân loại hết sức độc đáo mà trước đó, khoa học, tôn giáo và triết học thường có thái độ loại trừ nhau, không thừa nhận tiếng nói và vị thế của nhau trong đời sống tinh thần con người. Cách phân loại của I. Kant đặt lại vấn đề về ý nghĩa của sự tồn tại người trong chính nhận thức. Hơn thế nữa, I. Kant còn chỉ rõ thực chất của sự nhận thức thế giới nói chung đối với con người, hoá ra lại chính là, nhận thức con người; I. Kant viết: "Về thực chất, toàn bộ điều đó (4 câu hỏi và sứ mệnh trả lời 4 câu hỏi ấy) có thể quy giản về nhân học. Bởi vì, ba vấn đề đầu tiên thuộc về vấn đề cuối cùng". </div><div style="text-align: justify;">Kể từ I. Kant, nhân học triết học nói riêng và đặc biệt, các ngành nhân học thực nghiệm khác đã có những bước tiến rất dài trong nhận thức về con người và đời sống con người. Ngày nay, nhắc đến nhân học người ta rất ít nói về I. Kant, nhưng quả thực công lao của ông đối với ngành khoa học này thì khó có thể phủ nhận.</div><div style="text-align: justify;">*<br />
* *</div><div style="text-align: justify;">Nói tóm lại, với tất cả những gì vừa trình bày ở trên, chúng tôi muốn nói rằng, triết học I. Kant hoàn toàn có thể được coi là điển hình cho triết học của những nét đặc thù và độc đáo. Cố nhiên, nói triết học I. Kant là độc đáo thì cũng cần phải nói thêm là, khi đã ở tầm một nhà triết học của nhân loại, hầu như nhà triết học nào cũng đều có những nét đặc thù và độc đáo trong hệ thống triết thuyết của riêng mình. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, khó có nhà triết học nào lại độc đáo và đặc thù đến như I. Kant.</div><div style="text-align: justify;">Tính độc đáo của triết học I. Kant, trước hết được thể hiện ở hệ thống tư tưởng của ông. Tuy thế, ngoài hệ thống tư tưởng với các học thuyết về "vật tự nó", về hệ thống các phạm trù logic, hệ thống các phạm trù đạo đức học, về vai trò và vị trí của nhân học, và về bản thân các phạm trù mà chính I. Kant đã xây dựng nên, v.v... triết học I. Kant còn độc đáo ngay cả ở cách đặt vấn đề, cách thức trình bày, và thậm chí cả ở tên gọi các tác phẩm của ông... Sự độc đáo của triết học I. Kant trên thực tế đã từng khiến cho việc xếp loại, đánh giá những tư tưởng của ông trở nên đặc biệt khó khăn.</div><div style="text-align: justify;">Để kết thúc bài viết này, chúng tôi muốn nhắc đến một đánh giá mới nhất về I. Kant - đánh giá của Stephen W. Hawking, nhà vật lý học nổi tiếng đương đại. S. Hawking cho rằng I. Kant là người đứng ở đỉnh cao nhất trong số các nhà triết học vĩ đại của nhân loại - những người coi "toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ". S. Hawking phàn nàn: "thế kỷ XIX và XX, khoa học trở nên quá kỹ thuật và quá toán học đối với các nhà triết học nói riêng và nói chung là đối với nhiều người trừ một số ít chuyên gia rất sâu". Điều đó đã làm cho các nhà triết học giới hạn các câu hỏi của mình lại đến mức triết học chỉ còn là "phân tích ngôn ngữ". Và, S. Hawking nhận xét: "thật là một thoái trào lớn khỏi truyền thống lớn lao của triết học từ Aristote đến I. Kant". </div><div style="text-align: justify;">Chúng tôi không hoàn toàn tán thành nhận xét của S. Hawking. Song, những đánh giá của ông về I. Kant thì lại rất đáng phải suy nghĩ. </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><br />
</div><div style="text-align: right;">PGS,TS. <strong>Hồ Sĩ Quý</strong></div><div style="text-align: right;">Viện Nghiên cứu con người</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-69210247535698973172010-10-08T03:27:00.000-07:002010-10-08T03:28:48.692-07:00ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC ĐÊCÁCTƠ TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaiTB2FnoUBUDVfVqZxgvso9vQybV3l_me3_OOQx4H3NOR_wAN6ElfdqeQOL9wFqbq4uHdTWILYWzq4fvEBvAvXLQgafUS4uYEsg_C8nEA8znC4G27p-b6WBZCvwMGnYwOyc9fHVFO8ns/s1600/descartes2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaiTB2FnoUBUDVfVqZxgvso9vQybV3l_me3_OOQx4H3NOR_wAN6ElfdqeQOL9wFqbq4uHdTWILYWzq4fvEBvAvXLQgafUS4uYEsg_C8nEA8znC4G27p-b6WBZCvwMGnYwOyc9fHVFO8ns/s1600/descartes2.jpg" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Muốn hiểu rõ giá trị của triết học Đêcáctơ không gì bằng đem học thuyết ấy đặt vào trong tiến trình chung của lịch sử triết học. Khi so sánh nó với những hệ thống triết học khác trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại, chúng ta sẽ thấy rõ những đóng góp và hạn chế của nó. </em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà triết học có ảnh hưởng lớn đến R.Đêcáctơ là Arixtốt. Chính Arixtốt đã đem lại cho ông niềm tin ở lý trí con người. Những nguyên tắc nền tảng để xây dựng phương pháp nghiên cứu, ông cũng đã mượn của Arixtốt. Cái vũ trụ quan trọng làm nền móng cho triết học siêu hình của ông cũng lại là một công trình sáng tạo của Arixtốt. Chính vì vậy, khi đọc các tác phẩm của Đêcáctơ, chúng ta cần hiểu rõ địa vị thiết yếu đặc biệt của "Nguyên tắc đồng nhân” cái được coi là "tinh hoa" trong triết học Arixtốt, và cũng có thể coi là “tinh hoa" của hầu hết các trường phái triết học xưa nay. </div><div style="text-align: justify;">Coi vũ trụ là đồng nhất, Arixtốt đã đặt niềm tin ở lý trí con người. Ông cho rằng một khi trời đất đã không thay đổi, hay ít ra đã có những bản thể không thay đổi, thì do đó, con người có quyền hy vọng tìm được chân lý, miễn là khi suy luận tránh được những sự mâu thuẫn. Để tìm được những kết quả đồng nhất, Arixtốt đã đưa vào trong hệ thống triết học của ông phép tam đoạn luận. Áp dụng nó vào việc nghiên cứu vũ trụ và xã hội, ông đã để lại cho đời sau những cống hiến khoa học lớn lao. </div><div style="text-align: justify;">Nhưng tiếc thay, cái "tinh hoa" quý giá do Arixtốt truyền lại ấy chẳng bao lâu đã bị chìm đắm vì Giatô giáo. Trong hơn một nghìn năm, Châu Âu cúi đầu phục tùng nền tư tưởng huyền bí có cội rễ trong Kinh thánh. Những cống hiến khoa học trong triết học Arixtốt đều phải hứng chịu sự phê phán của sức mạnh niềm tin tôn giáo. Với ý đồ xoay hẳn triết học về một hướng khác, tôn giáo đã pha trộn học thuyết duy lý của Arixtốt với nhưng lời dạy của Kinh thánh thành một mớ giáo lý huyền bí, viển vông, độc đoán, vừa viện đến lý trí, vừa dựa vào lòng tin, lấy linh hồn để giảng nghĩa thân thể, lấy tinh thần để chứng thực vật chất, nâng nguyên tắc đồng nhất và tam đoạn luận lên thành mục đích tối cao của triết học mà không coi đó là phương pháp. Bằng cách đó, tôn giáo đã kìm hãm tư tưởng trong giáo đường, hạ lý trí xuống thành tôi tớ cho lòng tin mù quáng và huyền bí, đem tôn giáo vào tất cả những lĩnh vực hoạt động của trí tuệ. </div><div style="text-align: justify;">Song, đến thế kỷ XVI, các giáo lý tôn giáo ấy ngày càng ít có ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày và đời sống kinh tế xã hội. Một cuộc cách mạng lớn trong đời sống tinh thần, trong tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại đã diễn ra. </div><div style="text-align: justify;">Phản ánh cuộc cách mạng ấy về tinh thần là phong trào mà người ta gọi là cuộc Phục hưng. Tư tưởng bị lung lay mạnh, con người bừng tỉnh giấc mơ phong kiến và hoảng hốt đi tìm những chân lý mới. Khoa học rời bỏ giáo đường để tìm vào những tư gia. Các nhà thông thái đầu tiên, những ông thầy thuốc có học đã nhận thấy không thể đem linh hồn để giảng nghĩa cho vật chất, rằng thế giới vật chất có những quy luật riêng của nó. Không cần đến tam đoạn luận, không dùng đến Kinh thánh, người ta mò mẫm tìm kiếm những điều bí ẩn trong tự nhiên. Từ Car-dan, Ferrari, Neper... số học tiến hoá nhanh chóng lạ thường. Với những phát minh khoa học mới, nhiều quan niệm trước đây bị lật nhào, chẳng hạn như quan niệm về trái đất và bầu trời trong Kinh thánh, về cơ thể động vật, cách tổ chức của thực vật trong sinh học. Ngay trong giáo đường cũng có sự chia rẽ. Năm 1520, giáo sĩ người Đức - Lutther đã sáng lập nên phái Giatô cải cách để chống lại những điều phi lý của nhà thờ. </div><div style="text-align: justify;">Thế kỷ XVII, trong những năm đầu tiên, người ta đã được chứng kiến cuộc thái bình. Thái bình trở lại, thì tư tưởng con người cũng thay đổi nhiều. Nhưng phát minh của các nhà khoa học vẫn tiếp tục nở rộ, đáng chú ý nhất là các phát minh của Giatô. Trong bối cảnh ấy, triết học của R.Đêcáctơ đã ra đời và phát triển. Trong hệ thống triết học Đêcáctơ, chúng ta thấy, khởi điểm của phương pháp, cũng như của siêu hình học là niềm tin không bờ bến vào giá trị của những khoa học. Hệ thống triết học ấy được R.Đêcáctơ triển khai theo hai khuynh hướng: khuynh hướng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Giatô giáo và khuynh hướng chịu ảnh hưởng của những phát minh khoa học mới. </div><div style="text-align: justify;"><br />
René Descartes (1596-1650) <br />
R.Đêcáctơ được nuôi dạy trong hệ thống triết học kinh viện, ngay từ nhỏ đã được hít thở cái siêu hình học bị pha trộn của Arixtốt, song lại phải khép nép sống dưới bóng cây thập giá, do vậy, ông đã không dám (hay không biết thì đúng hơn...) thoát ra khỏi hệ tư tưởng ấy. Chính vì vậy, mặc dù những tư tưởng của ông có táo bạo đến đâu, cũng chỉ là táo bạo trong phạm vi do người xưa đặt sẵn. Ông muốn bước sang những chân trời mới, nhưng không biết đi về hướng nào, bởi phía nào cũng thấy bị chặn bởi nhưng lời dạy trong Kinh thánh. Và do vậy để bảo vệ giá trị khoa học, R.Đêcáctơ chỉ còn biết tin vào Thượng đế. Đề lý giải mọi sự thay đổi, ông viện đến nguyên tắc nhân quả - một biến thể của luật đồng nhất. Để tìm nguyên nhân vũ trụ, ông đưa ra những ý niệm về vô hạn.</div><div style="text-align: justify;">Như vậy, có thể nói, triết học của R.Đêcáctơ vừa là siêu hình học, vừa là vật lý học. Những lập luận có tính xác thực và khoa học của ông luôn pha lẫn với sự diễn địch trừu tượng. Vì thế đã có người coi hệ thống triết học của ông là hệ thống đứng giữa ngã ba đường. </div><div style="text-align: justify;">Tuy nhiên, không phải vì thế mà trong hệ thống triết học của R.Đêcáctơ không có những viên ngọc quý. Ngược lại, đó là một hệ thống được tạo nên với nhiều viên ngọc quý.</div><div style="text-align: justify;">Viên ngọc quý nhất trong hệ thống triết học Đêcáctơ là niềm tin vô tận vào lý trí, khoa học và nhữngphươngpháp mới. Với niềm tin ấy, ông tỏ rõ thái độ chán ghét những cuộc cãi vã viển vông và sai lầm của các môn phái cũ. ông muốn triết học phải rõ ràng và xác thực. Do chưa phân biệt rõ triết học với các khoa học khác như chúng ta ngày nay nên ông chủ trương xây dựng một phương pháp chung cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của trí tuệ.</div><div style="text-align: justify;">Thật ra, hơn hai nghìn năm về trước, Arixtốt cũng đã có niềm tin ấy - niềm tin ở lý trí. Triết học Arixtốt là một thứ triết học duy lý với nhiều cái hợp lý. Nhận thấy điều đó R.Đêcáctơ chủ trương đưa triết học trở về với hệ thống triết học do Arixtốt tạo ra. Khi phê bình R.Đêcáctơ, nhà triết học Đức - Hêgen cho rằng R.Đêcáctơ là người đã sáng lập ra nền triết học Cận đại xét về phương diện lấy tư tưởng làm căn bản. Anh hưởng của nhà triết học này trong thời đại của ông và trong nhưng thời đại mới là hết sức lớn lao. Ông là một bậc anh hùng, có công xây dựng lại triết học từ đầu và đem lại cho nó một vị thế xứng đáng, làm cho nó trớ về với vị thế ấy sau khi đã lầm lạc hàng nghìn năm đó là vị chế của lý tính thuần tuý.</div><div style="text-align: justify;">Do trình độ khoa học thời bấy giờ, R.Đêcáctơ mới chỉ nhìn thấy vai trò của phương pháp số học. Ông đề cao tính cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng của các lý thuyết, quy luật số học và cách thức mà nó điều khiển các con số. Và do vậy, ông hy vọng mở rộng các lý thuyết, quy luật và phương pháp đó sang việc nghiên cứu những hiện tượng diễn ra trong trời đất và trong tâm lý con người.</div><div style="text-align: justify;">Viên ngọc quý thứ hai mà R.Đêcáctơ để lại cho đời sau là những nguyên tắc cơ bản của phương pháp. Sau Bêcơn, R.Đêcáctơ đã tìm cách xây dựng một hệ thống phương pháp luận mới làm nền tảng cho sự phát triển của khoa học. Ông chủ trương xây dựng môn "logic dạy cách vận dụng lý tính một cách tốt nhất nhằm nhận thức những chân lý" mà con người còn chưa tìm ra. Đặc biệt đề cao vai trò của lý tính, phương pháp luận của ông hướng tới hoàn thiện và phát triển khả năng trí tuệ của con người, thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển. ông cho rằng một ai đó "dù đi rất chậm, nhưng nếu anh ta đi đường thẳng, vẫn có thể vượt xa so với những ai mặc dù chạy nhưng lai không đi theo con đường thẳng ấy".</div><div style="text-align: justify;">Những nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận Đêcáctơ là : Thứ nhất, chỉ được coi là chân lý những gì được cảm nhận một cách rõ ràng, hiển nhiên, không chút nghi ngờ. Thứ hai khi nghiên cứu bất cứ sự vật nào cũng phải chia nó thành các bộ phận và nhận thức các bộ phận ấy. Thứ ba, trong nhận thức phải xuất phát từ cái đơn giản đến cái phức tạp hơn. Thứ tư, không được bỏ sót một dữ kiện nào trong quá trình nhận thức. </div><div style="text-align: justify;">Tin ở lý trí, lại biết dùng lý trí đó nên trong siêu hình học Đêcáctơ, người ta đã tìm thấy một viên ngọc quý thứ ba - đó là quan niệm của ông về vật chất. Ông cho rằng cái vật chất đã vượt ra ngoài phạm vi của cái tâm lý. Song, vì chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, chưa dám và cũng không thể bác bỏ những giáo lý trong Kinh thánh để nói rằng cái vật chất có ảnh hưởng đến cái tinh thần, quyết định cái tinh thần, nên ông chỉ mới phân biệt linh hồn với thể xác. ông cho rằng thế giới vật chất là một thế giới riêng biệt và nó chỉ tuân theo những luật của vật chất, và do vậy, nhưng ai muốn nghiên cứu vũ trụ thì cần phải rời bỏ hết những thành kiến của linh hồn. Điều đó cho thấy, cơ giới luận theo khuynh hướng duy linh luận của R.Đêcáctơ có chứa những mầm mống duy vật, hay ít ra cũng là một miếng đất tốt cho nhưng mầm mống ấy mọc lên. </div><div style="text-align: justify;">Các nhà triết học cùng thời với R.Đêcáctơ không lầm khi nhận định như vậy về hệ thống triết học của ông. Chẳng hạn, Pascal - một con chiên thành kính, trọng đức tin và khinh thường lý trí, khi phê phán ông đã cho rằng không thể tha thứ cho R.Đêcáctơ được, bởi ông ta chủ trương không cần đến Thượng đế hích cái hích đầu tiên vào thế giới để làm cho thế giới đó xoay chuyển.</div><div style="text-align: justify;">Nhân sinh quan triết học của R.Đêcáctơ cũng đượm một niềm tin khoa học, niềm tin vào lý trí như siêu hình học của ông. Đọc lại những phương châm hành động mà ông khuyên mọi người nên tuân theo, chúng ta thấy không ở chỗ nào ông bàn về Thượng đế như một người có tôn giáo cả, và vì thế có người cho rằng, Thượng đế trong quan niệm của ông là Thượng đế "vô thần". Với R. Đêcáctơ, Thượng đế là có thực. Bới theo ông, dưới bất cứ hình thức nào, trong mỗi con người đều luôn có ý niệm về Thượng đế. Song, Thượng đế trong quan niệm của ông Thượng đế có trí tuệ, tượng trưng cho sự hoàn hảo và tối cao tuyệt đối, có vai trò định hướng và đem lại niềm tin cho con người trong nhận thức, cũng như trong mọi ước vọng. Ông coi con người như một sự liên kết nhờ Thượng đế, ở con người, linh hồn và thể xác là hoàn toàn tách biệt, vì “bản chất của thực thể tinh thần hoàn toàn không phụ thuộc vào cơ thể" con người. </div><div style="text-align: justify;">Đọc triết học của R.Đêcáctơ, cần phải biết phân biệt những tư tưởng cấp tiến với những tư tưởng bảo thủ, những tư tưởng khoa học với những tư tưởng siêu hình. Nếu coi triết học của ông là một công trình sáng tạo tự nhiên, thì khó có thể hiểu hết ý nghĩa của nó. Trái lại, phải coi triết học ấy như là kết quả của những thay đổi lớn trong xã hội Tây âu thời Phục hưng mới thấy được vì sao R.Đêcáctơ được coi là người "đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học" Tây Âu Cận đại, một kỷ nguyên mới trong triết học, kỷ nguyên của ánh sáng, của lý trí, của cái lý trí nhân đạo và đại đồng. </div><div style="text-align: justify;">Sau R.Đêcáctơ, trong lịch sử tư tưởng Châu Âu, đã diễn ra hai khuynh hướng: Khuynh hướng tiếp tục siêu hình học của ông và khuynh hướng hai tiếp tục những phát kiến khoa học của ông trong lĩnh vực vật lý học và sinh lý học. Trong chủ nghĩa duy lý, khuynh hướng thứ nhất quan tâm tới việc làm nổi bật tính chất tiên thiên của lý trí; khuynh hướng thứ hai, trái lại, chỉ chú trọng thuyết minh rằng lý trí có giá trị. Khuynh hướng thứ nhất đi vào thế giới tinh thần, khuynh hướng thứ hai đi sâu vào thế giới vật chất. Khuynh hướng thứ nhất tạo ra những triết lý siêu hình của Malebransơ, Spinôda, Lépnít, khuynh hướng thứ hai để lại dấu ấn ở hầu hết các khoa học hiện đại.</div><div style="text-align: justify;">Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến khuynh hướng thứ hai, vì nó có những kết quả dễ thấy và bền vững. Cội rễ của nó, nói cho đúng, không phải ở triết học Đêcáctơ, mà ở cái nguồn gốc phục hưng đã nổi dậy ngay khi xã hội phong kiến bắt đầu lung lay và nền tư tưởng đượm màu sắc tôn giáo bắt đầu đổ nát. Những nhà triết học của thế kỷ XVII - XVIII đã tiếp tục công việc mà R.Đêcáctơ và những nhà thông thái thời Phục hưng còn bỏ dở. Nhưng nhà triết học Pháp - R.Đêcáctơ có công lớn vạch rõ đường lối cho những người đi sau. Ông đã chứng thực được giá trị của khoa học và của nhưng phương pháp mà xưa kia người ta tìm ra một cách mò mẫm. Ông đặt nhưng phương pháp ấy lên vị trí cao không kém gì tam đoạn luận. Ông đưa những nhà triết học vào thế giới vật chất và cấm họ không được lạc sang thế giời huyền bí nhưng viển vông của tinh thần. Ông quả quyết rằng vũ trụ và thể xác con người chỉ là những cỗ máy tinh vi, có hoạt động nhưng không có ý thức.</div><div style="text-align: justify;">Cơ giới luận của R. Đêcáctơ là một trong nhưng nguyên nhân chính dẫn đến chủ nghĩa duy vật máy móc trong hai thế kỷ XVIII và XIX. Những bác sĩ kiêm triết học như Leroi, Lametri, Cabanis đã áp dụng phương pháp của R. Đêcáctơ để nghiên cứu về thân thể. Leroi còn đám quả quyết rằng linh hồn chỉ là một trạng thái của thân thể, còn tư tưởng cũng vận động như thế giới vật chất. Kết quả của những cuộc tìm kiếm ấy trong giới y học đã hình thành khoa thực nghiệm y học sau này.</div><div style="text-align: justify;">Nói đúng hơn, cội nguồn của chủ nghĩa ấy không chỉ là cống hiến khoa học trong triết học Đêcáctơ, mà còn là nhưng tư tưởng triết học của Ph. Bêcơn - ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm (C.Mác).</div><div style="text-align: justify;">Hai trào lưu duy vật này - một do R.Đêcáctơ khởi xướng, một do Ph. Bêcơn đề xuất đã được dung hoà bởi nhà triết học khai sáng Pháp - G.Ô.Lametri và sau đó được P.Hônbách kết hợp thành một. Tất cả các nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII như Ph.M.Vônte, Đ.Điđơrô... đã làm cho triết học Pháp thế kỷ XVIII hoàn toàn nghiêng về phía duy vật máy móc. </div><div style="text-align: justify;">Thực thế, môn đồ của R.Đêcáctơ về phương điện siêu hình, ngoài những Giáo sĩ ở Port Royal, đáng kể ở Pháp chỉ có Malebransơ - người coi trí tuệ con người là một phần của Thượng đế. Sau Malebransơ, triết lý siêu hình rời đất Pháp chuyển sang Hà Lan và Đức. Spinôda và Lépnít là hai nhà triết học nổi danh đã kéo dài cái phần huyền bí trong triết học Đêcáctơ tới Cantơ.</div><div style="text-align: justify;">Với ý đồ xem xét lại các quan niệm triết học truyền thống trên tinh thần phê phán, Cantơ cho rằng nhiệm vụ phê phán này của lý tính tư biện thuần tuý là thay đổi phương pháp nghiên cứu trước đây trong siêu hình học. Ông cũng cho rằng khoa học thực sự phải dựa trên nhưng tri thức tiên nghiệm với hai đặc trưng cơ bản là phổ quát và tất yếu. Song do chưa thoát ra khỏi quan niệm siêu hình, Cantơ coi mọi sự vật trong thế giới chỉ tồn tại dưới dạng đơn nhất và cá biệt. Và khi đi theo khuynh hướng duy lý của R.Đêcáctơ, Cantơ đã khẳng định vai trò đặc biệt của tri thức lý luận đối với khoa học và coi đó là nền tảng của quá trình nhận thức chân lý. </div><div style="text-align: justify;">Với quan niệm đó, khi chủ trương thực hiện "một cuộc cách mạng .triệt để" trong siêu hình học, Cantơ "lột trần" siêu hình học cũ và thuyết minh rằng trước khi bàn đến Thượng đế, linh hồn, vũ trụ, người ta phải tự xem xét trí tuệ của mình xem nó hành động thế nào và có giá trị bao nhiêu đã. Theo ông, vấn đề tri thức phải trở thành vấn đề lớn nhất của siêu hình học. Song, khi trả lời câu hỏi này, ông lại cho rằng lý trí không có giá trị gì hết và khi đã đưa nó lên đến nhưng chóp núi cao nhất thì ta cũng chỉ có thể biết được những hiện tượng bề ngoài mà không thề biết được cái bên trong của nó - "vật tự nó".</div><div style="text-align: justify;">Sau Cantơ, Hêgen đã đem lý trí ra xem xét lại một lần nữa và đi đến kết luận: Lý trí nếu cứ tuân theo quy luật đồng nhất, thì nó mới bất lực, vì khi ấy, nó chỉ biết đến cái tĩnh. Trái lại, nếu nó không sợ những sự mâu thuẫn mà biết suy luận một cách năng động, thì sẽ nắm được chân lý. Đánh giá cao chủ trương xây đựng một hệ thống phương pháp luận mới, một logic học mới của R.Đêcáctơ, Hêgen đã cố gắng xây dựng một hệ thống logic học mời trên cơ sở tiếp thu những mặt tích cực của logic học trước đây, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó, xuất phát từ nhu cầu phát triển của bản thân khoa học này nhằm đem lại cho con người cách nhìn nhận mới về bản chất của tư duy, đưa lại cho con người một phương pháp luận triết học làm nền tảng cho mọi khoa học khác. Đó là phép biện chứng với tư cách là học thuyết về sự phát triển.</div><div style="text-align: justify;">Có thể nói, sau Cantơ, trong lịch sử tư tưởng triết học còn nảy sinh nhiều trường phái khác, nhưng trường phái có quan hệ với triết học Đêcáctơ, có lẽ, chỉ có triết học Hêgen. Và sau đó, khi tiếp thu những hạt nhân hợp lý cả trong triết học Đêcáctơ lẫn trong triết học Hêgen mà không cần vin vào một Thượng đế tối cao nào đó cũng chứng thực được giá trị của trí tuệ con người, không quay về những học thuyết mơ hồ, huyền bí cũng giảng nghĩa được vũ trụ, con người và xã hội đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng - một chủ nghĩa duy vật lấy "vận động" làm gốc và lấy những "quy luật biện chứng” làm phương pháp.</div><div style="text-align: justify;">Trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học, đã có không ít những sự phê phán nhằm vào hệ thống triết học của R.Đêcáctơ, vào siêu hình học của ông, nhất là vào lập trương nhị nguyên luận của ông trong việc giải quyết hàng loạt vấn đề của triết học và khoa học. Song khuynh hướng tư tưởng của ông, từ lập trường nhị nguyên luận trong Cogito, ergo và siêu hình học đến lập trường nhất nguyên duy vật trong vật lý học và sinh lý học, cho thấy sự trăn trở của nhà tư tưởng Pháp vĩ đại trong việc xây dựng một hệ thống triết học và khoa học thật sự khi mà ảnh hưởng của các thế lực tôn giáo trong xã hội vẫn còn rất mạnh. Công lao vĩ đại của R. Đêcáctơ đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận đối với sự phát triển của triết học và khoa học sau này đó là điều không thể phủ nhận. Ông mãi xứng đáng với tư cách là người "đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học”, Tây Âu Cận đại.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><strong>Lê Thanh Sinh</strong>Tạp chí Triết học</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-69235507156946397222010-10-08T03:22:00.000-07:002010-10-08T03:22:31.324-07:00THUYẾT NHÂN, ÁI THÔNG, HÒA CỦA NHO NHA<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2pU0LMmXFDNseQotr9xyuYDwIOXBtNPIOsr27RWxEssp-HDnhyphenhyphenPPHoLo3yDb8BEX-ePas0smJJ2bvzHdTmLJKjGBgLo3JIaqF_XF0ISVdaYPuVNye8hrD_TdFGoZlwnN8y6g_532fQ6I/s1600/2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="268" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2pU0LMmXFDNseQotr9xyuYDwIOXBtNPIOsr27RWxEssp-HDnhyphenhyphenPPHoLo3yDb8BEX-ePas0smJJ2bvzHdTmLJKjGBgLo3JIaqF_XF0ISVdaYPuVNye8hrD_TdFGoZlwnN8y6g_532fQ6I/s320/2.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Lễ kỷ niệm 2550 năm ngày sinh Khổng Tử sẽ được tổ chức long trọng tại quê hương ông - Khúc Phụ vào tháng 10/1999, nhưng từ đầu quý 11, các nhà nghiên cứu đã lần lượt viết bài trên các báo về ý nghĩa, giá trị của Nho học thời đại hiện nay. Bài viết sau đây là một ý kiếm trong số nói trên. </em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Học thuyết nhân của Nho gia có thể gọi là học thuyết nhân, ái, thông, hòa. Đó là tinh hoa của Nho học và tinh hoa này có thể cung cấp cơ sở tư tưởng quan trọng cho sự chuyển đổi và phát triển cao hơn của văn minh nhân loại.</div><div style="text-align: justify;">Khổng Tử quy định nội hàm của nhân là ái nhân (yêu người). Còn Mạnh Tử cho đó là lòng trắc ẩn hoặc gọi là lương tâm. Nhân là một loại tình yêu của loài người, là sự đồng tình rộng lớn. Con người sinh ra trong tình yêu lớn lên trong tình yêu, bởi thế tất nhiên có lòng yêu, chỉ khác nhau ở rộng, hẹp, mạnh, yếu mà thôi. Nếu mất lòng yêu thì con người ấy cũng không còn nhân tính. Lòng nhân ái là viên đá làm nền cho mọi hành vi đạo đức. Bồi dưỡng ái tâm, mở rộng ái tâm là công trình nền tảng xây dựng văn minh, đạo đức. Đối với xây dựng luân lý phổ biến mà nói, nhiệm vụ cấp bách nhất, khó khăn nhất là mở rộng ái tâm ra toàn nhân loại. Thông thường, người ta không khó thực hiện yêu gia đình, yêu dân tộc, yêu quốc gia, yêu đồng đao song khó hơn là vượt khỏi những giới hạn đó để yêu nước khác, yêu dân tộc khác bởi vì họ cảm thấy quan niệm và quyền lợi hai bên có xung đột hoặc cách xa nhau quá, không liên quan gì với nhau. Thực ra lợi ích chung của nhân loại càng ngày càng lớn hơn mâu thuẫn và chia rẽ giữa họ do vậy, đề xướng tình yêu nhân loại càng có tính tất yếu. Nho gia nhấn mạnh “người trong bốn biển đều là anh em" coi thiên hạ như một nhà thì đời sống xã hội của loài người mới tiến tới hòa bình, ổn định.</div><div style="text-align: justify;">Khổng Tử cho rằng kẻ nhân yêu người phải thể hiện bằng đạo trung, thứ. Nói theo cách khắng định thì đó là "kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân" (bản thân muốn đứng được trong xã hội thì cũng làm cho người khác đứng vững, bản thân muốn việc gì cũng thông suốt thì làm cho việc của người cũng thông suốt như thế), như vậy là trung. Nói theo cách phủ định thì “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (cái gì mình cũng không muốn thì chớ có đùn cho người khác) vậy là thứ. So với trung thì thứ có tính nền tảng và phổ biến hơn, là mực thước tối thiểu để xã hội loài người duy trì được trật tự bình thường. Đạo trung, thứ của Nho gia dùng tương đối nhiều vào việc tu dưỡng đạo đức cá nhân ngày nay, chúng ta nên mở rộng trung, thứ thành chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc chính trị giữa các dân tộc và quốc gia khiến cho trung, thứ khắp thế giới. Đặc biệt, đạo trung, thứ cần được thực hiện trong hành vi chính trị có như thế thì mọi tranh chấp quốc tế và xung đột ở từng miền mới dễ dàng giải quyết hoặc tránh được như vậy có lợi cho tất cả mọi người.</div><div style="text-align: justify;">Đạo trung, thứ cần phối hợp với học thuyết thông hòa với hai quan niệm cơ bản: một là hòa, hai là thông. Hòa là sư thể hiện tinh thần nhân ái khi xử lý những khác biệt giữa con người, thông là con đường để thực hiện hòa. Không Tử nói: "Lê chi dụng, hòa vi qúy”. Quy định về lễ có làm người ta khác nhau nhưng không nên khiến người ta xa lánh, đối kháng nhau, mà nên giữ được quan hệ hài hòa giữa những sự khác nhau đó. Đạo nhân ái không đưa cái đơn phương cho người. không đòi hỏi người khác sống theo kiểu của mình mà tôn trọng tính đặc thù, tính độc lập của người khác, khiến đôi bên không đối kháng nhau mà phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau. Quan niệm hòa của Nho gia là một quan niệm đạo đức phù hợp nhất với nhân tính. Đó cũng là một quan niệm văn hóa và một quan niệm chính trị, bởi Nho gia chủ trương khoan đung về đạo đức đa dạng về văn hóa, hòa bình về chính trị. Nhờ quan niệm chủ hòa ấy của Nho gia mà Trung Quốc có truyền thống khoan dung, đôn hậu tốt đẹp, trong lịch sử từng có bách gia tranh minh. Nho và Đạo bổ trợ lẫn nhau ba đạo Nho, Phật, Lão dung hợp với nhau, không có bi kịch chiến tranh đổ máu vì tín ngưỡng bất đồng luôn giữ được thế cộng đồng đoàn kết, thống nhất giữa nhiều dân tộc. Đó chính là nhờ có cống hiến của Nho gia.</div><div style="text-align: justify;">Quan niệm thông được nêu ra nhằm đối ứng với trạng thái tắc. Thông là đánh thông, liên hệ, bình đắng, cởi mở, giao lưu, hiểu biết lẫn nhau. Chu dịch cho rằng tinh thần dịch có thể "cảm hóa, thông suốt khắp thiên hạ". Một nhà tư tưởng thời cận đại là Đàm Tự Đồng có làm sách Nhân học, trong đó ông viết: " Thông là nghĩa đầu tiên của nhân là thông”, “hình tượng của thông là bình đẳng". Thông có bốn nghĩa: một là "thông trong, ngoài”, hai là "thông trên, dưới", ba là "thông nam, nữ", bốn là "thông người, ta”. Người nhân đương nhiên yêu người nhưng không thông thì chưa thật sự yêu. Xã hội tắc mà không thông thì nhất định là xã hội nghèo nàn, lạc hậu, ngu tối, tuy có ý nguyện yêu thương đấy nhưng không thực hiện được. Còn xã hội khai thông thì tất nhiên công, thương phát đạt chính trị thông dân chúng hòa, văn hóa, giáo dục phồn vinh, tự do bình đẳng. Cho nên mới có nhận định: "Phân biệt nhân và không nhân thì cần xem thông hay tắc". Từ đó có thể thấy rằng, quan niệm thông bao gồm cả dân chủ hóa về chính trị, quốc tế hóa về kinh tế, đa dạng hóa văn hóa, bình đẳng về nhân cách đạo đức. Từ góc độ luân lý mà xét, thông vừa là một thái độ đạo đức, vừa là phương pháp thực tiễn của đạo đức, thông có tinh thần hiện đại hơn cả những yêu cầu khác của đạo đức. Hòa là mục tiêu, thông là biện pháp thực hiện, vì hòa mà thông, thông rồi sau đó mới hòa, hai đằng kết hợp với nhau không thể cắt chia. Không thông hiểu thì không thực sự hài hòa được.</div><div style="text-align: justify;">Ngày nay, vận dụng thông vào văn hóa tức là dùng đối thoại về văn minh để thay thế xung đột về văn minh, mở rộng giao lưu, học tập lẫn nhau cùng chung sức giữ gìn sự muôn màu muôn vẻ của cuộc sống tinh thần trên toàn thế giới. Vận dụng thông, hòa vào đạo đức nhân loại tức là phá bỏ tính hẹp hòi thích gây họa cho người, mở rộng lòng yêu nước, yêu dân tộc mình tới nước khác, dân tộc khác, thực hiện bác ái thực sự: ít nhất cũng uốn nắn lại tâm lý thù hận dân tộc hoặc nhóm người.</div><div style="text-align: justify;">Thuyết nhân, ái, thông, hòa của Nho gia còn nên mở rộng thành triết học sinh thái nhân loại thời nay, dùng để xử lý mối quan hệ giữa xã hội loài người và hoàn cảnh tự nhiên. Nho gia hủ trương mở rộng lòng yêu đến vạn sự, vạn vật, để xuất tư tưởng "người nhân là cùng một thể với vạn vật trong thiên hạ". Người có lòng nhân thì tâm của họ không chỉ tương thông với nhân loại, mà còn tương thông với động vật và thực vật. Tấm lòng bác ái ấy là một phần không thể thiếu làm nên sự phát dục lành mạnh của nhân tính.</div><div style="text-align: justify;">Như vậy, thuyết nhân, ái, thông, hòa của Nho gia có thể đạt tới ba loại hài hòa: hài hòa giữa người và thiên thiên, hài hòa giữa người với người, hài hòa trong nội tâm của con người. Ba loại hài hòa này gắn liền với hạnh phúc mai sau của nhân loại. Bởi vậy, đó là một học thuyết vĩ đại, xứng đáng được toàn thế giới tôn trọng và quan tâm, khiến cho học thuyết đó phát huy được tác dụng vốn có trong cuộc sống hiện thực.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><strong>Mậu Trung Giám</strong>Tạp chí Tia sáng</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-11666896665742905382010-10-08T03:17:00.000-07:002010-10-08T03:17:00.379-07:00MẠNH TỬ VÀ QUAN ĐIỂM NHÂN NGHĨA<div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-FVPjjQfLPyPoE60TztuFVJokpYbmosDL2ds6p1wSS37hZJ-1h6vcTQw5kVasfMZJywXiSephuj7BxlTIyPktMu8-WBERcu1A9-aRayDjKlph0TppdnVKq1GQN4c7nr7gAW1KDlMP8Vk/s1600/Mencius_2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-FVPjjQfLPyPoE60TztuFVJokpYbmosDL2ds6p1wSS37hZJ-1h6vcTQw5kVasfMZJywXiSephuj7BxlTIyPktMu8-WBERcu1A9-aRayDjKlph0TppdnVKq1GQN4c7nr7gAW1KDlMP8Vk/s1600/Mencius_2.jpg" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Giáo sư Francois Jullien, Chủ tịch Viện quốc tế triết học là tác giả 10 tập chuyên luận so sánh triết học Trung Hoa và triết học Âu Châu đặc biệt chú ý là những công trình: xác lập cơ sở cho đạo đức, đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia khai sáng (Grasset, 1995)… làm nổi bật vai trò cơ bản của triết học trong đối thoại giữa những nền văn hóa, đưa ra một phương pháp luận so sánh văn hóa Đông - Tây mới mẻ có thể trình bày vắn tắt như sau: “hiểu lý trí Châu Âu từ lý trí Trung Hoa và ngược lại”, “suy tư Trung Hoa bằng Châu Âu và ngược lại”. Sau đây là bản dịch Chương I của công trình xác lập cơ sở cho đạo đức.</div><div style="text-align: justify;"><br />
Một ông vua băn khoăn không biết mình có đủ tài đức để bảo hộ dân chúng gây dựng nên nghiệp vương không. Để nhà vua tin ở khả năng của mình, một nhà hiền triết gợi nhắc lại một giai thoại về chính nhà vua. Một hôm vua đương ngồi trong đền bỗng thấy một người lôi một con bò qua cửa đền, con vật bị đưa đến noi hiến tế nó sẽ bị giết, đặng lấy máu làm lễ bôi chuồng. Trước bộ dạng nhớn nhác của con vật, giống như một kẻ vô tội bị giải tới nơi nhục hình, nhà vua không nỡ, bèn ra lệnh thả nó ra. Một viên quan hỏi: "Bỏ lệ lấy máu bôi chuồng sao"? Vua trả lời: "Sao lại bỏ? Hãy đem con dê mà thế vào”!</div><div style="text-align: justify;">Chỉ chừng ấy, nhà hiền triết kết luận đủ để thấy rằng nhà vua có khả năng gây dựng nghiệp vương. Tuy vậy, giai thoại được kể mới nghe tưởng chừng như chọc vào nhà vua: với ý kiến đem con dê thay cho con bò, nhà vua bị chê là hà tiện và chính nhà vua chống chế một sự quy kết như vậy cũng thừa nhận cách xử sự của mình có chỗ không ổn. Bởi lẽ vì sao tha cho con bò mà lại không tha cho con dê, con này chẳng cũng vô tội như con kia hay sao? Nhà hiền triết lại phải làm sáng tỏ cái gì đã diễn ra trong lòng dạ nhà vua, điều này những người xung quanh và bản thân nhà vua không nhận biết được: nhà vua đã đề nghị một cách vô tư thay con bò bằng con dê, chẳng qua là vì ông đã "nhìn thấy" vẻ xớn xác của con bò còn con dê thì ông không "nhìn thấy". Đích thân ông được chứng kiến sự khủng khiếp của con bò: nó xuất hiện ra đột ngột trước mắt ông mà ông chẳng có một dự phòng vào cả, trong khi đó số phận của con dê ở ông chi là một ý niệm. Một ý niệm vô danh, trừu tượng và do đó không có hiệu quả Không có tác động của sự hiện diện mặt đối mặt - mắt nhà vua đã trợn ngược nhìn thấy sự khủng khiếp của con bò và từ đó không nhắm lại dược nữa. Chính vì vậy việc con dê bị làm vật hy sinh không làm cho nhà vua xao xuyến , trước sau ông xem sự việc này cũng là lẽ thường vậy. Còn đối với con bò, sự nhìn thấy đủ làm cho ông xúc động và tình lý trong nội tâm ông trong chốc lát bị xao động. Như vậy, nhìn chiều sâu, sự không nhất quán trong cách ứng xử mà nhà vua lấy làm hổ thẹn trên thực tế lại bộc lộ một phẩm giá đáng quý ở ông: nhà vua "không nỡ” đứng "nhìn" sự đau khổ, ông không thể làm một người chứng kiến dửng dưng với số phận của kẻ khác, ngay cả khi kẻ khác đó là một con vật. Và phản ứng trực tiếp này của lòng không nỡ đủ để chứng tỏ tâm hướng đạo đức của ông.</div><div style="text-align: justify;">Giai thoại nói trên được thuật lại theo lời của Mạnh Tử, một nhà triết học Trung Hoa thế kỷ IV trước CN. Mạnh Tử khái quát hóa: "Người quân tử đối với chim chóc và thú vật, đã trông thấy chúng nó sống thì chẳng nỡ nhìn xem chúng nó chết, đã nghe chúng kêu la thì chẳng nỡ ăn thịt chúng nó". Châm ngôn này làm tôi nhớ đến: những con vịt thời bé chúng tôi đem thả vào một cái bể to, chúng tôi thích thú xem chúng nô giỡn, rồi một hôm một con chó cắn chết chúng và chúng tôi không nỡ đem vặt lông nấu ăn. Nhưng nhân danh cái gì mà không nỡ? Cái gì đã ngăn giữ chúng tôi không làm thịt những con vịt, sức mạnh nào đã đưa vào kinh nghiệm sống, sự phân định ranh giới cần thiết này, ranh giới này cũng tương đối thôi nhưng cuối cùng thi không thể chối từ được (và tác động của nó, một khi được minh định, trở thành điều căn cốt, hệ trọng). Tiếp theo giai thoại, Mạnh Tử có nhận xét "người quân tử nên ở xa nhà bếp và nơi mổ lợn, mổ gà" (nói một cách khác, lò sát sinh cần đặt nơi xa khuất). Nhận xét này xen vào đây (dễ bị lầm tưởng như một thành kiến của loại người sang trọng cao đạo) thực ra nhấn mạnh điều này: một khi có âm mưu đối với một sinh tồn khác (ngay cả một sinh tồn động vật) một khi có tác động của sự đối diện với sụ hiện hữu (dù là trong chốc lát) của một sinh tồn khác. Ta không thể nào dửng dưng được. Cũng phải thấy rằng trong lĩnh vực này, ví dụ được nêu lên không đơn thuần là một sự minh họa, nó có vai trò như hòn đá thử vàng: về chủ đề được tranh cãi quá nhiều này của đạo đức. chí có kinh nghiệm là bảo đảm cuối cùng và là căn cứ để sàng lọc các lý lẽ. Dĩ nhiên qua kinh nghiệm phải nắm được đạo đức trong sự căn cốt của nó và sự kiện được nêu lên phải là sự kiện không chối cãi được. Chính vì vậy Mạnh Tử có ý thức đưa ra một tình thế có tính điển hình: thấy một đứa trẻ con sắp té xuống giếng , ai cũng động lòng kinh sợ, thương xót, chạy bổ đến cứu đứa bé. Mà họ hành động như vậy "không phải vì tình giao kết với cha mẹ đứa trẻ mà muốn cho được thân thích hơn; cũng không phải vì muốn cho hàng xóm, bằng hữu khen tặng mình, lại cũng không phải vì tránh tiếng xấu là người bất nhân. Những đặc điểm của lòng không nỡ trước sự bất hạnh của người khác là: không có sự tính toán, không có sự nghĩ ngợi nào và sự phản ứng có tính chất tự phát. Không có lợi lộc nào xen vào động cơ, hành động cứu trợ ở ngoài sự giám sát của ý chí. Một tình thế như vậy đáng được nêu lên làm tình thế mẫu. Nó phơi trần ra một cách ứng xử tuyệt đối vô tư, trong đó cái cá nhân bị vượt qua: bất thần tôi không chủ động được nữa, tôi không làm chủ những cứu cánh ích ký của mình được nữa, chinh là bản thân sự sinh tồn, qua tôi, đương trỗi dậy vì người khác. </div><div style="text-align: justify;">Như vậy được phơi bày ra ở trạng thái tự nhiên và tức thì điều mà không một lý lẽ nào có thể bác bỏ. Chứng cứ là những điều thuộc tập quán cổ xưa mà Mạnh Tử thuật lại, người đời xưa chưa có lệ chôn cất cha mẹ. Khi cha mẹ qua đời, họ đem bỏ xác xuống hố. Ít hôm sau, đi qua, họ thấy chồn cáo xâu xé những cái thây, ruồi nhặng và ròi bọ đục khoét: toát mồ hôi trán, họ chỉ ngó nghiêng, không dám nhìn thẳng... Mồ hôi rịn ra trên mặt, "đó chẳng phải là tại họ xấu hổ với người khác", Mạnh Tử bình luận, sự phản ứng là từ sâu thẳm lòng họ. Họ bèn quay về nhà, mang thúng mủng cuốc xẻng tới, họ đào đất mà lấp thây cha mẹ. Việc mai táng, Mạnh Tử kết luận, không chỉ là một ước lệ: nó bộc lộ một mối liên hệ giữa các sinh tồn mả ngay cái chết cũng không xóa bỏ được. Mạnh Tử còn đưa ra một điều tế nhị là đối với những người đã "hóa thân" không để cho đất cát,chạm da. Chúng ta không nỡ dửng dưng trước những gì đe dọa người khác ngay cả khi họ đã chết.</div><div style="text-align: justify;">Những ví dụ như vậy khiến ta nghĩ đến tính phổ biến của nguyên tắc "Người ta ai cũng có lòng thương xót, lòng chẳng nỡ đối với việc này hoặc việc khác" (Đ.T.C Mạnh Tử, t.thượng tr.273) từ đó Mạnh Tử suy ra: đem tấm lòng chẳng nỡ ấy (đối với người khác) phổ cập đến những điều mình còn nỡ (còn đang tâm đối với người khác), đó là "nhân" vậy. Cá nghĩa là đối với ai cũng vậy, có cái gì đó khiến mình, trong cơn hoạn nạn của người khác, không thể dửng dưng và gây ra phản ứng. Sự không dửng dưng này có nghĩa là ta không thể nào bình thản, “thoải mái", yên ổn" đứng trước nhũng gì bất hạnh đến với người khác (đối chiếu với cảm giác "bất an" trong lương tâm mà Khổng Tử đã từng nói đến). Đồng thời còn có khá nhiều điều bất hạnh trong cuộc sống người khác mà ta còn dửng dưng, thậm chí không hề quan tâm. Từ quan điểm Trung Hoa, luân lý đạo đức không đặt ra định đề nào cả, cũng không đưa ra giới luật và lời dạy nào cả, chẳng qua nó chỉ là sự mở rộng này: sự triển khai phản úng không nỡ (không chịu đụng nổi) tới tất cả những gì ta vẫn nỡ (vẫn đành chịu) trước sự cùng khốn của con người.</div><div style="text-align: justify;">Mặt khác, với ai cũng vậy, có "những điều mình chẳng làm" (tức là mình không thèm làm): đem triển khai, mở rộng ý thức chẳng chịu làm, không thèm làm này tới những điều (đáng chê trách) mà mình vẫn cứ làm, đó là "nghĩa" vậy. Trên thực tế người không thèm "khoét vách", “trèo tường” để ăn trộm hàng xóm rất có thể giống nịnh hót nhà vua, không còn biết chính trực là gì nữa: "lúc chẳng nên nói thì lại thưa thốt" hoặc "lúc đáng nói thì lại ngậm miệng”. Sự bất lương "thưa thốt, ngậm miệng" này thực ra là cùng một "ruột" với sự ăn trộm trắng trợn nhất. Ngược lại, với kẻ "có khả năng khuyếch sung hình thức lương tâm ngăn ngừa trộm cắp" thì nguồn nghĩa ở anh ta là "vô tận".</div><div style="text-align: justify;">Sự mở rộng này như là một nhân tố cấu thành của ý thức đạo đức được thực hiện theo hai chiều: trong bản thân chúng ta nó là sự triển khai của lòng không nỡ thỉnh thoảng ta cảm nhận được trước sự cùng khốn của người khác tới toàn bộ kinh nghiệm sống của chúng ta (hoặc đó là sự triển khai của những điều ta có sự quan tâm tới những người khác sang tất cả những gì ta chưa có sự quan tâm tới họ hoặc đó là sự triển khai tình cảm không chịu làm, không thèm làm tới tất cả những điều đáng chê trách mà ta vẫn cứ làm), ở ngoài chúng ta. nó là sự triển khai hướng tới những người khác, từ người gần nhất đến người xa nhất, bằng sự khuy ếch trương, bằng động tác của gương mẫu nêu lên cho họ (trước hết là gương mẫu được nêu lên từ bậc thiên tử). "Đẩy tới" (hoặc "triển khai"), "mở rộng khuyếch trương" (hoặc "khuyếch sung") đó là những chức năng then chốt trong sách Mạnh Tử. Bởi lẽ ý thức đạo đức cũng giống như ngọn lửa “nhen nhúm sắp cháy bùng", như dòng suối "phát tích sắp lưu thông". Chính vì vậy chỉ mỗi sự phản ứng không nỡ ở nhà vua lần ông thấy vẻ xốn xác của con bò bị lôi đi tới nơi hiến tế- miễn là tình cảm không nỡ này được khuyếch sung đầy đủ cũng đủ để nhà vua bình thiên hạ.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><strong>Hoàng Ngọc Yến</strong><br />
Tạp chí Tia sáng</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-73247020556964499662010-10-08T03:11:00.000-07:002010-10-08T03:11:38.390-07:00"NHÂN" TRONG LUẬN NGỮ CỦA KHỔNG TỬ<div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjdKaxEhlmIcr49elUovKiK3fccuZ6-yQCFyRHb9cenGwV4qO0QrMFcTcEQJMiFqtycwGWoeU9-m6eEJHFPJIeXn1-ff70xuKzzRRkV1bN3VNIfbzGkZRjyGXchHf7Bt-km25qPElpmIgo/s1600/NHAN.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjdKaxEhlmIcr49elUovKiK3fccuZ6-yQCFyRHb9cenGwV4qO0QrMFcTcEQJMiFqtycwGWoeU9-m6eEJHFPJIeXn1-ff70xuKzzRRkV1bN3VNIfbzGkZRjyGXchHf7Bt-km25qPElpmIgo/s320/NHAN.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
<em>Nho giáo ra đời vào thế kỷ VI trước công nguyên do Khổng Tử (551 - 479 TCN) là người sáng lập. Tại quê hương của Nho giáo đã từng có lúc rộ lên "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", nhưng thực tế đã chứng minh, cuối cùng thì Nho giáo vẫn là học thuyết có sức sống lâu bền nhất.</em> </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Lịch sử hình thành, phát triển của Nho giáo với nội dung, tính chất và vai trò lịch sử của nó luôn là đề tài hấp dẫn đối với giới nghiên cứu lý luận. Dường như mỗi một bước tiến mới của lịch sử thì từng vấn đề trong nội dung của Nho giáo lại được đề cập, xem xét lại và được đánh giá một cách đầy đủ hơn, đúng đắn hơn. Có thể nói, một học thuyết ra đời cách đây hơn 2.500 năm đã được sự kiểm chứng của thời gian thì giá trị của nó về mặt lý luận và thực tiễn là điều chúng ta không dễ bỏ qua. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ muốn góp thêm tiếng nói về một khía cạnh mà, theo chúng tôi, mang tính tích cực và có ý nghĩa đối với chúng ta trong thời đại ngày nay. Đó là tư tưởng "Nhân" trong học thuyết của Khổng Tử. </div><div style="text-align: justify;">Khái niệm "Nhân" trong học thuyết của Khổng Tử được đề cập ở rất nhiều tác phẩm, nhưng trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới nội dung của khái niệm này trong Luận ngữ. Luận ngữ là tác phẩm ghi lại lời bàn luận giữa Khổng Tử và các học trò của ông. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê, tác phẩm này do nhiều người ghi và ra đời sớm nhất cũng là sau khi Khổng Tử đã mất chừng bảy mươi hoặc tám mươi năm. Chính vì vậy mà nhiều điều do Khổng Tử nói ra đã không được các học trò của ông ghi lại đầy đủ. Điều đó khiến chúng ta gặp không ít khó khăn khi nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử. Trong Luận ngữ có nhiều khái niệm được lặp lại nhiều lần. Chẳng hạn như khái niệm "Nhân"- 109 lần, khái niệm "Người quân tử"- 107 lần, khái niệm "Lễ" - 74 lần, khái niệm "Đạo", 60 lần. Do đó, trong giới nghiên cứu đã có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về nội đung của các khái niệm này. </div><div style="text-align: justify;">"Nhân" trong Luận ngữ của Khổng Tử là một trong những khái niệm nhận được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Có người cho "Nhân" là nội dung cơ bản của Luận ngữ và là tư tưởng chủ đạo của Khổng Tử. Có người lại cho rằng "Lễ" mới là nội đung cơ bản của tác phẩm và có người còn coi cả "Nhân" và "Lễ" đều là nội dung cơ bản của tác phẩm. Theo chúng tôi, quan niệm coi "Nhân" là nội dung cơ bản của Luận ngữ, là tư tưởng chủ đạo của Khổng Tử - đó là quan niệm chính xác, đúng đắn. Chúng tôi đồng ý với quan niệm này không phải là đồng ý với nghĩa là khái niệm "Nhân" được nhắc tới nhiều lần trong tác phẩm, mà chính là vì xuất phát từ hiện thực lịch sử của Trung Quốc lúc bấy giờ, Trung Quốc khi đó là thời kỳ mà "Chiến tranh là phương thức phổ biến để giải quyết mâu thuẫn và quyền lợi, địa vị đương thời". Trong thời đại của Khổng Tử, các tầng lớp thống trị, một mặt, dùng chiến tranh để tranh giành quyền lợi, mặt khác, sử dụng chiến tranh để lôi kéo kẻ sĩ, sai khiến họ bầy mưu tính kế nhằm thu phục thiên hạ và giành quyền bá chủ cho mình. Đứng trước tình hình xã hội như vậy, các kẻ sĩ muốn dùng đạo của mình để cải tạo xã hội và Khổng Tử cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Suốt cuộc đời mình, Khổng Tử luôn quan tâm tới vấn đề này. Ông nói: "Ta 15 năm tuổi để chí vào việc học (đạo), 30 tuổi biết tự lập (tức khắc kỷ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm), 40 tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức nên hiểu rõ ba đức nhân, nghĩa, lễ), 50 tuổi biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được), 60 tuổi đã biết theo mệnh trời, 70 tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý". Với một con người suốt đời "học không chán, dạy người không mỏi", lúc nào cũng chỉ muốn đem cái đạo của mình ra giúp đời và giúp cho đời ổn định thì đó phải là người có lòng nhân rộng lớn biết bao. </div><div style="text-align: justify;">Trong Luận ngữ, khái niệm "Nhân" được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà "Nhân" được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất "nhân" là một nguyên tắc đạo đức trong triết học Khổng Tử. “Nhân" được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua "lễ", "nghĩa", quy định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. "Nhân" có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì "Nhân" là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người. "Nhân" cũng có thể hiểu là "trung thứ", tức là đạo đối với người, nhưng cũng là đạo đối với mình nữa. Trong một cuộc nói chuyện với các học trò Khổng Tử đã nói: Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả. Về điều này, Tăng Tử - một học trò của Khổng Tử cho rằng, Đạo của Khổng Tử là "trung thứ". "Trung" ở đây là làm hết sức mình, còn "thứ" là suy từ lòng mình ra mà biết lòng người, mình không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó. "Trung thứ" là sống đúng với mình và mang cái đó ứng xử tốt với người.</div><div style="text-align: justify;">Dù trong Luận ngữ có nhiều sự giải thích khác nhau về "Nhân", song sự giải thích trong thiên "Nhan Uyên" là có tính chất bao quát hơn cả. Có thể nói, ở đây "Nhân" trong quan niệm của Khổng Tử là "yêu người" (Luận ngữ, Nhan Uyên, 21). Nếu nhìn toàn bộ tư tưởng của ông, phải xem nội dung trên là tiêu biểu cho điều "Nhân". "Nhân" là "yêu người", nhưng người nhân cũng còn phải biết "ghét người". Với Khổng Tử thì chỉ có người có đức nhân mới biết "yêu người" và "ghét người". Khổng Tử nói: "Duy có bậc nhân mới thương người và ghét người một cách chính đáng mà thôi" (Luận ngữ, Lý nhân, 3).</div><div style="text-align: justify;">Có người cho rằng, "Nhân" (người) trong "ái nhân" (yêu người) là chỉ con người trong giai cấp thống trị và yêu người trong tư tưởng Khổng Tử chỉ là yêu người trong giai cấp phong kiến. Thực ra, khái niệm "Nhân" (người) mà Khổng Tử dùng ở đây là để đối với "cầm thứ'. Do đó, đi liền với "Nhân" (người) là các khái niệm "thiện nhân", "đại nhân", "thành nhân", "nhân nhân", "thánh nhân", "tiểu nhân"... Các khái niệm này nhằm chỉ những con người có tính cách khác nhau, trình độ đạo đức khác nhau. "Thánh nhân" là người có đạo đức cao siêu, "tiểu nhân" là người có tính cách thấp hèn… "Nhân" ở đây là chỉ con người nói chung và "ái nhân" là yêu người, yêu bất cứ người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội của họ. </div><div style="text-align: justify;">Trong Luận ngữ, có chỗ Khổng Tử không dùng khái niệm "Nhân" (yêu người), nhưng nội dung thể hiện ở đó lại thấm đượm tình yêu thương cao cả. Qua những trường hợp sau có thể thấy rõ. Có lần một học trò của Khổng Tử là Tử Du hỏi về “hiếu”, Khổng Tử trả lời: "Điều hiếu ngày nay chỉ có nghĩa là có thể nuôi cha mẹ. Nhưng đến loài chó ngựa cũng đều được nuôi, nếu không có lòng kính thì làm thế nào phân biệt được". "Hiếu” ở đây vừa có ý nghĩa là nuôi nấng, chăm sóc cha mẹ, vừa phải có lòng kính yêu cha mẹ, yêu thương rất mực đối với cha mẹ. Lại một lần khác, Khổng Tử xong việc ở triều đình về, nghe nói chuồng ngựa cháy, câu đầu tiên ông hỏi là: có ai bị thương không và không nói gì tới ngựa cả. Điều đó cho thấy, ông quan tâm đến sinh mệnh con người (dù đó là những người hầu hạ) hơn là sự sống còn của ngựa (tức là của cải). Tư tưởng "Nhân" là "yêu người" của ông thực sự đã được thể hiện ra mọi nơi, mọi lúc.</div><div style="text-align: justify;">Coi "Nhân" là "yêu người", trong Luận ngữ, Khổng Tử đã dành không ít lời để nói về đạo làm người. Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về "Nhân", Khổng Tử đã nói: “Sửa mình theo lễ là nhân. Ngày nào cũng khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ tự nhiên cảm hoá mà theo về đức nhân. Vậy nhân là do mình, chớ há do người sao?" (Luận ngữ, Nhan Uyên, l). Trọng Cung - một học trò khác của Khổng Tử hỏi về "Nhân", Khổng Tử cho rằng, những cái gì mà mình không muốn thì đừng đem thi hành cho người khác - đó là đức hạnh của người nhân (Xem: Luận ngữ, Nhan Uyên, 2). Còn khi Phàn Trì hỏi về "Nhân", Khổng Tử giảng giải rằng, “khi ở nhà thì giữ diện mạo cho khiêm cung, khi làm việc thì thi hành một cách kính cẩn, khi giao thiệp với người thì giữ đức trung thành. Dẫu có đi đến các nước rợ Di, Địch cũng chẳng bỏ ba cái đó, như vậy là người có đức nhân" (Luận ngữ, Tử Lộ, 19). Người nhân trong quan niệm của Khổng Tử còn là người phải làm cho năm điều đức hạnh được phổ cập trong thiên hạ. Năm điều đức hạnh đó là: cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Ông nói: "Nếu mình nghiêm trang cung kính thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình có lòng rộng lượng thì thu phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thật thì người ta tin cậy mình. Nếu mình cần mẫn, siêng năng thì làm được công việc hữu ích. Nếu mình thi ân, bố đức, gia huệ thì mình sai khiến được người" (Luận ngữ, Dương Hoá, 6). Không chỉ thế, người nhân, theo Khổng Tử, còn là người mà "trước hết phải làm điều khéo, rồi sau mới đến thu hoạch kết quả" (Luận ngữ, Ung dã, 20), và "người cứng cỏi, can đảm, kiên tâm, quyết chí, chất phác, thật thà, ít nói thì gần với nhân" (Luận ngữ, Tử Lộ, 27). Với Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có thể có được cuộc sống an vui lâu dài với lòng nhân của mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có thể yên ổn, thanh thản. Do vậy, theo ông, người nhân "bậc quân tử không bao giờ lìa bỏ điều nhân, dẫu chỉ trong một bữa ăn. Người quân tử không bao giờ ở sai điều nhân, dẫu trong lúc vội vàng, khi ngả nghiêng cũng vẫn theo điều nhân" (Luận ngữ, Lý nhân, 5). </div><div style="text-align: justify;">Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Khổng Tử, "Nhân" không chỉ là "yêu người", "thương người", mà còn là đức hoàn thiện của con người, và do vậy, "nhân chính" là đạo làm người - sống với mình vả sống với người, đức nhân là cái bền vững như núi sông. Với ông, nếu thịnh đức của trời - đất là sinh thành, bắt nguồn từ đạo trung hoà, trung dung thì cái gốc của đạo lý con người là "trung thứ" và đạo đức, luân lý con người là "Nhân", người có đạo nhân là bậc quân tử, nước có đạo nhân thì bền vững như núi sông. Tuy nhiên, trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc đã có nhiều học thuyết phê phán chữ "Nhân" (yêu người) của Khổng Tử. Có người cho đó là giả dối, có người cho đó là nói suông, có người lại cho đó là nguồn gốc của bất nhân, bất nghĩa... Thế nhưng không phải vì thế mà tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử không đi vào lòng của nhiều người đương thời, gây cho họ biết bao sự xúc động và làm cơ sở cho hành động nhân đạo của họ. Thực tế cho chúng ta thấy, "từ đời Hán trở đi, suốt trên hai nghìn năm đạo Khổng được độc tôn, Vua Chúa đời nào cũng ráng áp dụng nó, mặc dầu không đúng. Nó thực tế hơn đạo Mặc, đạo Lão, nhân bản hơn thuyết của Pháp gia". Cũng cần phải nói thêm rằng, trong Luận ngữ, tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử còn bao gồm nhiều đức khác, như: Trực (ngay thẳng, không giả dối), Kính (nghiêm trang, cẩn trọng, cẩn thận trong công việc), Nghĩa, Lễ... </div><div style="text-align: justify;">Để hiểu rõ hơn về tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử cần so sánh nó với tư tưởng Kiêm ái của Mặc Tử, tư tưởng Từ bi của đạo Phật. Nếu tư tưởng Kiêm ái của Mặc Tử coi ai cũng như mình, người thân của người cũng là người thân của mình, không phân biệt riêng tư thì "Nhân" phân biệt mình và người, lấy mình làm khởi điểm để phân biệt từ thân đến sơ, từ gần tới xa, phân biệt người tất, kẻ xấu. Người Nhân trong quan niệm của Khổng Tử coi trọng đạo đức, chú ý phần thiện trong bản tính con người thì người Kiêm ái chỉ chú trọng đến sự cứu giúp vật chất, chú ý đến"giao tương lợi". Tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử cũng khác xa tư tưởng Từ bi của đạo Phật. Phật thương người và thương cả vạn vật. Lòng thương của Phật có một nỗi buồn vô hạn, buồn cho sự mê muội của sinh linh, tìm cách giải thoát mọi sinh linh ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử. Còn đạo Khổng tìm mọi cách giúp cho con người sống một cuộc sống vui vẻ hơn, có nghĩa lý hơn và tìm kiếm hạnh phúc ngay trên cõi trần chứ không phải ở trên cõi niết bàn. Chính vì vậy, ngay cả khi tư tưởng từ bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật giáo du nhập và có chỗ đứng trong đời sống tinh thần của con người Đông Á thì nó cũng không thể thay thế được vai trò của đạo Khổng. Có thể nói "Nhân" của Khổng Tử là tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu nhất trong lịch sử các nước ở phía đông của Châu Á này.</div><div style="text-align: justify;">Có thể nói, chế độ phong kiến Đông Á kéo dài được mấy nghìn năm một phần là nhờ tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử. Nhờ có đường lối "nhân nghĩa" của Khổng - Mạnh mà xã hội đó được ổn định, con người với con người có quan hệ hòa hợp, còn xã hội trở thành một khối bền vững. Sự trì trệ của xã hội phong kiến đó ở giai đoạn sau là do nguyên nhân khác, chứ không phải do nguyên nhân ở tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử. </div><div style="text-align: justify;">Ngày nay, chế độ xã hội đã khác trước. Con người ngày nay cần một thứ nhân đạo chủ nghĩa phù hợp với thời đại mình. Nhưng không phải vì vậy mà tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử không còn có ý nghĩa. Xã hội ngày nay vẫn còn những người nghèo khó, đói rét, cô đơn, bất hạnh, những con người này rất cần đến sự quan tâm, thông cảm, giúp đỡ của người khác và của cả cộng đồng. Do vậy, tư tưởng "Nhân" là yêu người của Khổng Tử vẫn còn có thể phát huy tác dụng. </div><div style="text-align: justify;">Xã hội là một cộng đồng của những con người, giữa họ có nhiều mối quan hệ. Nếu mỗi người chỉ biết xuất phát từ lợi ích của mình để đối xử với người khác, nếu chỉ nghĩ đến lợi ích của mình mà không thấy được quyền lợi của người khác thì xã hội sẽ có biết bao thảm kịch xảy ra. Một khi mỗi con người đều biết quan tâm, nhường nhịn và hỗ trợ người khác thì không những họ thấy cuộc sống của bản thân yên ấm, hạnh phúc, mà cả cộng đồng của họ cũng có sự gắn bó, bền vững và có nhiều điều kiện để khắc phục những tai nạn do khách quan đưa lại. Điều này không những đúng với xã hội ngày xưa, mà còn đúng với cả xã hội ngày nay. Khi xã hội loài người đang trong quá trình toàn cầu hoá, phấn đấu để thế giới trở thành "ngôi nhà chung", không còn có cộng đồng lớn hay nhỏ đứng ngoài "ngôi nhà chung" ấy, thì chúng ta càng cần phải xích lại gần nhau, tạo ra những tiền đề cơ bản để có thể xây dựng một ngôi nhà chung mang một sắc thái mới, đó là: đa sắc tộc, đa tín ngưỡng, đa văn hoá và trên hết là có một tinh thần bao dung.</div><div style="text-align: justify;">Có thể nói, phạm trù "Nhân" của Khổng Tử đã ra đời trong thời đại phong kiến, mang sắc thái của xã hội phong kiến, có những điều không còn phù hợp với ngày nay, nhưng việc tìm hiểu và rút ra được “hạt nhân hợp lý" của nó vẫn là việc chúng ta nên làm, cần làm.</div><div style="text-align: right;"><br />
</div><div style="text-align: right;">Nguồn: Tạp chí Triết học</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-5313340602881339782010-10-08T03:02:00.000-07:002010-10-08T03:02:38.180-07:00TUÂN TỬ<div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEge_PNzknPYvMhslnkYsO8G2YP3TPyg6pOb0HBUNekNliPRY62RE-zpglHlykmjCxdZVDA2NH659YKjmB-Z88nPmn_tBYUzyirxcifQAWGF8uhdZsXnukLYJsvqNC5oAzs0WHm7ucFgGfE/s1600/1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEge_PNzknPYvMhslnkYsO8G2YP3TPyg6pOb0HBUNekNliPRY62RE-zpglHlykmjCxdZVDA2NH659YKjmB-Z88nPmn_tBYUzyirxcifQAWGF8uhdZsXnukLYJsvqNC5oAzs0WHm7ucFgGfE/s1600/1.jpg" /></a></div><div style="text-align: justify;">298 – 238 trước Công Nguyên</div><div style="text-align: justify;"><br />
1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI .</div><div style="text-align: justify;">Tuân Tử tên Huống , tự Khanh, cũng tự Tôn Khanh. Đời Hán đặt tên sách của Tuân Tử là "Tôn Khanh Tử", sang thời Đường mới đổi lại xưng hô "Tuân Tử". Tuân Tử người nước Triệu, sanh vào năm nào không được rõ, chỉ biết "Niên giám Tuân Tử", bắt đầu ghi chép sự tích của Người từ năm Triệu Huệ Văn Vương nguyên niên, tức 298 tr. KN. TL và mất vào năm thứ 25 Sở Khảo Liệt Vương, tức 238 tr. CN. Đại để là, trước 40 tuổi, Tuân Tử chuyên tâm về việc trau dồi học vấn, khoảng trước sau 50 tuổi đi du hành qua các nước, từ 60 tuổi trở đi, những năm đầu làm huyện lệnh Lan Lăng của nước Sở, những năm sau thì mở lớp dạy học, y như Khổng Tử, Mạnh Tử thuở trước. Đúng vào năm 50 tuổi, Tuân Tử đến nước Tề. Tuy được người Tề hết sức kính nể, đã trước sau ba lần cử làm "Tế tửu , một danh hiệu vinh dự trong buổi "quốc yến", nhưng rốt cuộc chẳng được trọng dụng. Sau khi rời Tề sang Tần, Tuân Tử được gặp tể tướng Phạm Tuy. Lúc đó Tần là một cường quốc, thường ỷ thế mạnh đe dọa chư hầu. Phạm Tuy hỏi cảm nghĩ của khách ra sao, đối với Tần. Đáp lại câu hỏi đó, trước hết, Tuân Tử ca ngợi Tần là một nước có tập tục tốt, núi non đẹp, hơn nữa là, quan lại dốc lòng vì dân, triều đình làm việc mau mắn. Nhưng tiếp theo thì vuốt mặt chẳng nể mũi, thẳng lời phê bình nước Tần hãy còn khiếm khuyết đạo Nho. Chiếu theo tiêu chuẩn của Tuân Tử thì, thiếu đạo Nho tức là thiếu Lễ nghĩa, mà lễ nghĩa là linh hồn của quốc gia. Tuân Tử khen điều hay, chê điều dở của Tần một cách thẳng thắn, chẳng ngại mếch lòng ai như vậy là thái độ nhận chân nghiêm túc, phải là phải, trái là trái của con người Nho học. Song cũng vì thế, nên Tuân Tử đã thiếu dịp may thi thố tài đức, thực hiện lý tưởng chính trị của mình, đành phải trở về cố quốc. Ở Triệu là nơi nước nhà, Tuân Tử từng biện luận phép dụng binh với Lâm Vũ Quân, trước mặt Triệu Hiếu Thành Vương. Lâm Vũ Quân dựa vào nguyên tắc "xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị" của Tôn Tử binh pháp, cho ràng kẻ dùng binh giỏi, bao giờ cũng "quyền mưu thế lợi " và "công đoạt biến trá", nghĩa là không từ bỏ bất cứ thủ đoạn gian trá nào. Ngược lại, Tuân Tử có quan điểm khác hẳn, Người nhấn mạnh kẻ giỏi về quân sự là biết "thiện phụ dân", tức là dựa vào sức mạnh của dân một cách hiệu quả. Tuân Tử cho rằng, được dân ủng hộ mới nắm chắc phần thắng, cho nên "thiện phụ dân", là cái vốn quý nhất của người điều khiển chiến tranh.<br />
Tiếc thay, ngay tại bản quốc cũng không đắc chí Tuân Tử lại tái xuất ngoại, sang nước Sở. Tại Sở, Tuân Tử được Xuân Thân Quân bổ làm huyện lệnh huyện Lan Lăng, rồi từ đó định cư luôn tại chỗ, không trở về cố quốc nữa. Vào những năm cuối cùng, lúc tuổi về già, Tuân Tử mở trường tư thục dạy học và viết sách, sáng lập ra học phái Lan Lăng, tạo dựng phong khí thư hương cho xứ này. Từ đó, học trò Lan Lăng hay lấy chữ "Khanh" đặt tự, để kỷ niệm thầy Tuân Tử.<br />
Người đời sau hay hiểu một cách tổng quát là, lúc về già, Khổng Tử cùng Mạnh Tử đều cáo lão về vườn, lập ngôn và trước tác. Thật ra, bảo trọng Khổng - Mạnh lập ngôn là đúng, nhưng viết sách vị tất đã đúng. Riêng Tuân Tử, trong thời gian ở Lan Lăng, chẳng những đã lập ngôn, mà còn lập thư nữa. Ba mươi ba thiên trong cuốn sách mà Tuân Tử đã viết, là một bộ tác phẩm, có hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh nhất của phái Nho học thời Chu - lân. (Nói như vậy, không có nghĩa là cuốn "Tuân Tử" ngày nay, hoàn toàn do một tay Tuân Tử viết ra, bởi cổ tịch nào cũng có phần tả thêm, hoặc ít hoặc nhiều ngôn luận của các nhà Nho đời sau). Tuy rằng, trong triết lý tư tưởng của Tuân Tử, có một số khác biệt với Khổng - Mạnh, nhưng về lập trường căn bản của Người đối với thế sự, nhất là thái độ khẳng định giá trị lý tưởng chính trị của nhà Nho, thì chẳng có khác gì với Khổng - Mạnh. Có lẽ cũng vì thế mà cuộc đời của Tuân Tử cũng chẳng khác chi mấy, so với Khổng Tử và Mạnh Tử. </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">2- Tư Tưởng Của Tuân Tử</div><div style="text-align: justify;">Tuân Tử cũng như Mạnh Tử, cả hai đều là nhân vật lịch sử, thừa kế tư tưởng, phát triển học thuyết của đức thầy Khổng Tử, nhưng kết cuộc thì khác nhau về tao ngộ. Trên lịch sử Trung quốc, Mạnh Tử đã giành được một địa vị chỉ có dưới một nấc, so với Khổng Tử, sách "Mạnh Tử" được liệt vào mười ba kinh thư, mà tầng lớp trí thức cổ kim, ai nấy đều nên học hỏi theo truyền thống. Còn sách "Tuân Tử" thì trái lại, không được người đời coi trọng, thậm chí có chỗ còn bị coi như dị đoan". Xét ra thì có hai nguyên nhân, tạo nên hiện lượng bất thường này: Một là, vì Tuân Tử đề ra "Tính ác", ngược lại với "Tính thiện" của Mạnh Tử; hai là, có hai đệ tử của Tuân Tử sau này, là Hàn Phi cùng Lý Tư, đều là nhân vật chủ chốt, trong thế cuộc dẫn tới bạo chính của nhà Tần.<br />
Người ta đã so sánh phần dị biệt về tư tưởng, giữa Tuân Tử với Mạnh Tử, ngoài vấn đề "tính ác" với "tính thiện" ra, còn có những điểm sau đây:<br />
1/- Mạnh Tử thuộc về chủ nghĩa "tiên nghiệm"; Tuân Tử thuộc về chủ nghĩa "kinh nghiệm". <br />
2/- Mạnh Tử chú trọng về "tâm tính", nhằm xây dựng một hệ thống triết lý cho Nho học; Tuân Tử thì để ý về vấn đề chính trị, xã hội nhiều hơn, nhằm giải quyết sự việc thật <br />
3/- Trong phần tu dưỡng tâm tính, Mạnh Tử chủ trương "quả dục"; Tuân Tử chủ trương "túc dục".<br />
4/- Về phần bổng lộc, Mạnh Tử vẫn giữ nguyên thể chế thế tập với thái độ bảo thủ; Tuân Tử thì chủ trương "vô đức bất quý, vô năng bất quan". (kẻ thiếu đức không đáng hưởng địa vị cao sang, người thiếu tài không được làm quan), có khuynh hướng chống quy tắc thế lộc (con cháu được hưởng lộc ông cha), muốn giải thoát con người ra ngoài cương tỏa của chế độ phong kiến.<br />
5/- Mạnh Tử cố chấp về giá trị lý tưởng cao cả, coi nhẹ việc làm cho quốc gia giầu mạnh; Tuân Tử thích ứng với trào lưu mới hơn, luôn luôn nhấn mạnh, phải làm thế nào cho quốc gia phú cường.<br />
Tuy nhiên, người ta công nhận, giữa Mạnh Tử và Tuân Tử cũng có nhiều điểm tương đồng sau đây:<br />
(a) Cả hai đều tôn sùng Chu công và Khổng Tử, và có ý thức quý dân hơn vua.<br />
(b) Đều nhấn mạnh, tánh cách quan trọng của đạo đức và nhân phẩm con người.<br />
(c) Khinh miệt thuyết "hợp tung", "liên hoành" của Tô Tần và Trương Nghi.<br />
(d) Phê phán rất nghiêm khắc, các học thuyết khác đương thời.<br />
Nói chung, tư tưởng của Tuân Tử có những điểm nổi bật sau đây:<br />
1/- Luận tâm theo lý tít Tuân Tử bảo: "Tâm tri đạo, nhiên hậu khả đạo; khả đạo nhiên hậu năng thủ đạo dĩ cấm phi đạo". (Khi lòng người đã hiểu đạo thì đạo mới hành; đạo có hành thì người ta mới giữ theo đạo và ngăn ngừa những gì trái đạo). Theo Tuân Tử thì, công dụng của "tâm" là để "tri đạo" nghĩa là đạo Ơ ngoài tâm, là đối tượng để cho tâm tìm hiểu một cách khách quan. Như vậy thì khác với tư tưởng của Khổng - Mạnh. cho là đạo ở ngay trong lòng người (tâm). Cũng bởi khác nhau về trạng thái tâm linh, cho nên Khổng - Mạnh đã trở thành giáo phái, Tuân Tử thì tự thành học phái. Kẻ thành giáo phái thuộc mẫu "Chúa cứu thế”; người thành học phái thuộc mẫu "nhà học vấn". Tư tưởng của hai đàng sở dĩ khác nhau, là bởi hai mẫu người khác nhau.<br />
2/- Khi luận về trí thức, Tuân Tử rằng: "Phàm dĩ tri, nhân chi tính giã; khả dĩ trì, vật chi lý giã". (Sự hiểu biết là bản tính của con người; những gì mà người ta biết được, đó là lý lẽ của sự vật). Câu trước có hàm nghĩa "năng tri", câu sau có hàm nghĩa "Sở tri", năng tri và sở tri kết hợp nhau, là thành trí thức.<br />
3/- Luận về Trời (Tạo hóa), Tuân Tử giữ thái độ hoài nghi, phủ định tính cách chủ tể của Trời, cho rằng Trời chẳng có liên can gì tới vấn đề trị loạn, hưng vong của thế gian. Thái độ này là điều kiện tất yếu cho nhà khoa học, trong số các nhà triết học truyền thống cổ Trung Quốc, ít ai có được lối nhìn quý hóa này.<br />
4/- Tuân Tử chú trọng đặc biệt về trí thức, chủ trương để trí thức quyết định cho hành vi của con người. Điểm này có giá trị đặc biệt, bổ khuyết cho học thuyết Khổng - Mạnh, bởi trong suốt cuộc đời, Khổng Tử chưa hề có lời khẳng định, tầm quan trọng của kinh nghiệm và trí thức.<br />
5/- Dầu cho tư tưởng của Tuân Tử, có khác biệt với Khổng - Mạnh, nhưng Người không phủ định hẳn truyền thống nhà Chu, chẳng qua là, văn hóa nhà Chu đối với Khổng Tử, thì có ý nghĩa về đạo đức cùng giáo hóa, khi đến tay Tuân Tử thì áp dụng vào lý luận trí thức, xây dựng thành hệ thống Lễ, Nghĩa của quốc gia, xã hội. Đặc điểm này của Tuân Tử, rất ăn khớp với câu "Trí thức tức là đạo đức danh ngôn của triết gia Tây phương Sơcrates. Tiếc rằng, Tuân Tử chưa hoàn thành được toàn bộ triết lý theo quan niệm "trí thức luận", có lẽ Vì nguồn tư tưởng của Người đã bị giới hạn vô hình, bởi nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc chăng.<br />
Ngoài năm điểm trên, trong tư tưởng của Tuân Tử, còn một điểm nổi bật nữa là, thuyết "Tính bản ác". Phần đông người ta đã hiểu lầm chân ý của Tuân Tử về tính ác của con người. Thật ra thì Tuân Tử có bảo: "Tính giả thiên chi tựu”. Nghĩa là khi sinh ra, người ta đã sẵn cái nhân tính tự nhiên. Nhân tính đó, ví như tờ giấy trắng, được nhuộm màu gì sẽ ra màu ấy. Sở dĩ nhân tính có thể thành ra ác, là bởi lòng người nảy sinh dục vọng, như Tuân Tử đã bảo: "Kim nhân chi tính, sinh nhi háo lợi yên, thuận chi, cố tranh đoạt sinh, nhi từ nhượng vong yên... Sinh nhi hữu nhĩ mục chi dục, hữu háo thanh sắc yên, thuận chi, cố dâm loạn sinh, nhi lễ nghĩa văn lý vong yên. Nhiên tắc, túng nhân chi tính, thuận nhân chi tình, tất xuất ư tranh đoạt, thạp ư phạm nhân loạn lý, nhi quy ư bạo... Dụng thử quan chi, nhiên tắc nhân chi tính ác minh dĩ". (Tính người ngày nay, trời sinh có kẻ hiếu lợi, do đó, mới sinh ra vấn đề tranh đoạt mà mất đi đức tính khiêm nhường... Trời sinh người ta có thứ dục vọng bởi tai mắt, thích nghe cái hay, nhìn cái đẹp do đó. mới sinh ra vấn đề dâm loạn, mà mất đi lễ nghĩa, đạo lý văn hóa. Vậy thì, nếu cứ chiều theo tính và thuận theo tình của con người, thì sẽ diễn ra cảnh tranh giành, phạm tội loạn ly, rồi quy hết về bạo lực... Cứ nhìn theo đó thì đã quá rõ ràng, tính người là ác vậy). Đấy là lý luận của Tuân Tử, giải thích tại sao bản tính của con người, từ chỗ trong trắng dẫn tới chỗ ác hại. Vậy phải làm sao để khử được ác, giúp cho con người hướng về thiện? Tuân Tử nhận định rằng, hành động tội ác của con người, là do hậu quả bị ảnh hưởng, bởi những yếu tố phản đạo lý trong văn hóa, vậy thì phải cậy những yếu tố hạp đạo lý trong văn hóa, mới có thể chữa trị được. Nói cách khác, phương pháp trừ ác của Tuân Tử là phát huy công dụng giáo hóa của Lễ và Nghĩa, rồi cậy Lễ, Nghĩa kìm hãm hành vi tham lam của con người. Thật ra, cách trừ ác của Tuân Tử nói trên, vốn là một lối phổ thông nhất, trong xã hội lễ giáo mà Trung Quốc đã có sẵn cái truyền thống đó. Chẳng qua vì người ta chỉ để ý đến cách giáo hóa bằng lòng "Nhân" của Khổng Tử và bằng đức "Nghĩa" của Mạnh Tử, mà chẳng nhớ tới cách giáo hóa Lễ, Nghĩa bằng phép vua của Tuân Tử đó thôi.<br />
Vê mặt tư tưởng chính trị của Tuân Tử, một phần là thừa kế chủ thuyết của Khổng - Mạnh; phần khác là thuộc về sáng kiến riêng của Người. Trong phần thừa kế, có hai điểm rõ rệt nhất là "quý dân" và "thượng hiền". Sách "Tuân Tử" có rất nhiều chỗ nói về "quý dân" tựu trung có ba điểm chính:<br />
(I) Thương dân nước sẽ mạnh, như câu "ái dân giả cường, bất ái dân giả nhược". (Kẻ thương dân thì mạnh, kẻ không thương dân là yếu)<br />
(2) Thương dân thì chúa sẽ an vị, như câu "Quân giả châu giã; thứ nhân giả, thủy giã; thủy tắc tải châu, thủy lắc phúc châu, thử chi vị giã. Cố quân nhân giả, dục an, tắc mạc nhược bình chính ái dân dĩ". (Vua ví như thuyền; dân ví như nước; nước chở được thuyền thì cũng lật được thuyền. Cho nên kẻ nắm quyền cai trị nếu muốn được an vị, thì chẳng còn cách nào hay bằng, thực hiện chính trị hòa bình và biết thương dân).<br />
(3) Lập luận dân quý vua khinh, như câu "Thiên chi sinh dân, phi vi quân giã; thiên chi lập quân, dĩ vi dân giã". (Trời sinh ra dân, chẳng phải vì vua; trời lập ra vua ấy là vì dân). Điểm này hoàn toàn phù hợp với lời "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh", của Mạnh Tử. Về phần "thượng hiền", cũng có ba quan điểm rõ rệt là:<br />
(a) Chọn hiền sĩ có thể giúp cho vua an vị, như câu tuyển hiền trưởng... như thị tắc thứ nhân an chính; thứ nhân an chính, nhiên hậu quân tử an vị". (Tuyển dụng kẻ hiền tài giúp việc nước... như thế là dân sống yên nhờ chính trị tốt; dân có yên chính, thì chúa mới yên vị được).<br />
(b) Đức phải xứng với vị, như câu "Vô đức bất quý, vô năng bất quan, vô công bất thưởng, vô tội bất phạt... (Kẻ thiếu đức không được ở địa vị cao sang, người kém tài thì không được làm quan, chẳng có công thì đừng thưởng, chẳng có tội thì đừng phạt...).<br />
(c) Phê phán kẻ bất kính hiền, khác nào loài cầm thú, như câu "Nhân hiền nhi bất kính, tắc thị cầm thú giã". (Không biết kính trọng kẻ hiền sĩ, tức là loài cầm thú vậy).<br />
Riêng về phần sáng kiến độc đáo của Tuân Tử, tức là chủ nghĩa Lễ trị. Điều này sở dĩ khác biệt với Khổng - Mạnh, là vì trong vấn đề trị nước, Khổng - Mạnh định luận theo ý niệm đạo đức, có tính cách chủ quan; còn Tuân Tử thì định luận theo giáo hóa Lễ, Nghĩa, có tính cách khách quan. Lý do rất giản dị là, xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, chẳng phải là thứ xã hội pháp trị. nên chỉ trọng vào phép vua để trị nước chưa đủ, còn phải cậy vào Lễ, Nghĩa để giáo hóa và bổ túc, mới được hoàn hảo hơn. Do đó, Tuân Tử coi Lễ, Nghĩa là nền tảng của chính trị quốc gia, chẳng những là pháp chế để thống ngự thần dân, đồng thời còn là then chốt của cuộc trị loạn, hưng vong của một nước. </div><div style="text-align: justify;">3- Công Tích Của Tuân Tử Đối Với Nho Học</div><div style="text-align: justify;">Giả thử chúng ta nhìn Nho học bằng khái niệm tổng quát, thì thấy Khổng Tử thuộc về đạo "Nhân", Mạnh Tử thuộc về đạo "Nghĩa", còn Tuân Tử thì thuộc về đạo "Trí". Nhân giả, giàu tình thương, có lòng thành khẩn và tâm hồn quảng đạt; Nghĩa giả, cương trực tiết tháo, thị phi phân minh, biểu lộ khí phách hiên ngang, độc lập của phần tử trí thức; Trí giả, nhận xét sự vật bằng lý tính, phải là phải, trái là trái, không bị ảnh hưởng bởi tình cảm. Dùng lý trí khách quan của Tuân Tử, bổ túc cho đạo đức chủ quan của Khổng - Mạnh, giúp cho chủ thuyết Nho học càng hoàn hảo hơn, hội đủ điều kiện tất yếu, vừa là giáo phái, vừa là học phái. Phần bổ túc đó, có ba điểm trọng đại nhất sau đây:<br />
1/- Túc dục: Khổng Tử từng chủ trương "tiên phú hậu giáo" Mạnh Tử cũng từng khuyên vua chúa, nên hữu sản hóa cho lê dân, chứng tỏ Nho học đã có sẵn quan niệm "túc dục" (thỏa mãn cho đòi hỏi). Song, quan niệm đó, vô tình lại mâu thuẫn với giá trị căn bản trong tư tưởng Khổng - Mạnh, như Khổng Tử từng bảo: "Quân tử mưu đạo bất mưu thực". Và Mạnh Tử cũng kêu gọi người đời nên "quả dục" (bớt đòi hỏi đi). Trái lại, giá trị căn bản của Tuân Tử bất do Nhân, bất do Nghĩa mà đánh giá vào chữ LỄ". Một trong những công hiệu của Lễ, là "Dưỡng nhân chi dục cấp nhân chi cầu”. (Chấp nhận những đòi hỏi chính đáng của người ta, và thỏa mãn theo nhu cầu cho người ta). Cho nên Tuân Tử đề xướng chính sách tăng gia sản xuất cho nước giàu mạnh, đặng có đủ điều kiện "túc dục" cho dân.<br />
2/- Hợp quần: Đây là tư tưởng xã hội của Tuân Tử với câu: "Lực bất nhược ngưu, tẩu bất nhược mã, nhi ngưu mã vi dụng hà giã? Viết: Nhân năng quần, bỉ bất năng quần... Cố nhân sinh bất năng vô quần, quần nhi vô phấn tắc tranh, tranh tắc loạn, loạn tắc ly, ly tắc nhược, nhược tắc bất năng thắng vật... Năng dĩ sư thân vị chi hiếu, năng dĩ sư huynh vị chi dễ, năng dĩ sư thượng vị chi thuận, năng dĩ sư hạ vị chi quân. Quân giả, thiện quần giã, quần đạo đương, tắc vạn vật giai đắc kỳ nghi". (Sức chẳng mạnh bằng trâu, chạy chẳng nhanh bằng ngựa, sao trâu ngựa lại để cho ta khiển dụng? Câu trả lời là: Người ta biết hợp quần, trâu ngựa không biết hợp quần... Cho nên người ta sinh ra chẳng thể không hợp quần, nhưng đã hợp quần mà không định phận là tranh giành nhau, hễ tranh là loạn, loạn thì chia rẽ nhau, chia rẽ nhau thì yếu, đã yếu thì chẳng thành tựu được việc gì cả... Biết lấy đạo hợp quần mà thờ song thân gọi là hiếu, biết lấy đạo hợp quần mà trọng đàn anh, gọi là đễ, biết lấy đạo hợp quần mà kính bề trên, gọi là thuận, biết lấy đạo hợp quần mà xử kẻ dưới, gọi là chúa. Người làm chúa phải giỏi đạo hợp quần, đạo hợp quần tốt, là tất cả mọi sự vật đều được giải quyết một cách thỏa đáng). Đoạn văn này của Tuân Tử gồm có bốn điểm chánh sau đây:<br />
(1) Hợp quần là một trong những đặc tính của loài người. Nói khác đi, con người là loài động vật có đặc tính xã hội, nhờ vậy mới ưu việt hơn các loài động vật khác. <br />
(2) Hợp quần tốt, là một phương thức giải quyết được các vấn đề phân tranh trong xã hội.<br />
(3) Hợp quần cũng là một phương cách, tiến hành sự việc chung trong xã hội, và mọi người đều có vị trí cùng quyền lợi tương xứng.<br />
(4) Tuân Tử muốn lấy đạo hợp quần thay thế cho giá trị cũ của đạo hiếu đễ. Nghĩa là, một khi con người ta đã góp phần cống hiến thích đáng cho xã hội, thì kể như đã làm tròn bổn phận trong đạo Hiếu và Để rồi.<br />
3/- Bình đẳng: Khổng Tử từng chủ trương bình đẳng về kinh tế, như câu: "Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân". (Chẳng lo ít, chỉ lo chia không đều), nhưng tư tưởng bình đẳng của Tuân Tử thì hướng về địa vị xã hội nhiều hơn.<br />
Bởi vì đưa ra chủ trương bình đẳng về kinh tế, trong lúc xã hội cổ Trung Quốc còn rất nghèo nàn về điều kiện vật chất, xét ra chẳng có ý nghĩa gì cho lắm. Trái lại, ý thức bình đẳng về địa vị xã hội, mới đúng là một đòn đả kích mạnh, nhắm vào chếđộ phong kiến, một thể chế chính trị bất hợp lý của tầng lớp quý tộc. Riêng về điểm này, Tuân Tử đã nói rất rõ: "Tuy vương, công, sĩ đại phu chi tử tôn, bất năng thuộc ư lễ nghĩa, tắc quy chi thứ nhân; tuy thứ nhân chi tử tôn giã, tích văn học, chánh thân hạnh, năng thuộc ư lễ nghĩa, tắc quy chi khanh tướng, sĩ đại phu . (Dù là con cháu của bậc vương công, sĩ đại phu chăng nữa, nếu chẳng vào khuôn phép Lễ Nghĩa, thì nên đánh xuống hạng thường dân; tuy là con cháu của thường dân, giá như có học thức cao, hạnh kiểm tốt, thuộc vào khuôn phép Lễ Nghĩa, thì nên nâng lên hàng khanh tướng, sĩ đại phu).<br />
Tuân Tử có thể kết luận là, một triết gia theo chủ nghĩa nhân bản. Ở Trung Quốc, Khổng Tử là người khởi xướng chủ nghĩa nhân bản, nhưng so sánh ra thì, chủ nghĩa nhân bản của Tuân Tử có nhiều tiến bộ hơn. Một là, tuy Tuân Tử cũng nhiệt tình với nền văn hóa truyền thống, nhưng không có ý phục cổ, trái lại, còn rất mạnh dạn phê bình người xưa. Ngoài Khổng Tử ra, ít có nhân vật tiêu biểu nào trong các học phái thời Chu Tần, thoát khỏi lời phê bình của Tuân Tử, kể cả Mạnh Tử và Tử Tư. Tuy nhiên, khi phê bình, Tuân Tử luôn luôn đứng vào cương vị học thuật để đánh giá tư tưởng của người khác. Hai là, Tuân Tử chú trọng thực tiễn hơn là lý thuyết suông, cho nên luôn luôn nhấn mạnh vấn đề chính trị xã hội, gạt bỏ mọi ý tưởng than thoại ảo huyền, theo đuổi lý tưởng giải phóng con người. Đáng liếc là, lừ đời Chu Tần trở đi, xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội nặng về truyền thống, chính trị Trung Quốc vẫn là chính trị chuyên chếvua quan, thiếu các chất tố dân chủ khoa học như trong xã hội Tây phương, rút cuộc phong trào nhân văn, mà các triết gia thời Chu Tần đã khởi xướng trước đây trên hai ngàn năm, bị mai một từ đời nọ qua đời kia.</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-47260718792437579652010-10-08T02:34:00.000-07:002010-10-08T02:34:24.334-07:00TRANG TỬ<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjWzbcd54DH37_gD3OFCAk6rCOYZ7ylo4-y6Vbk3MK3uWYbp8jl1hfunFmoxULuMYG3M6nq7A6lOHS3THUwxif1ZqHiDHwizuI61JEY7tFwLhMVtNP4hG3TmAQ6z0onaWw0zdsAa6kRuf4/s1600/a.bmp" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjWzbcd54DH37_gD3OFCAk6rCOYZ7ylo4-y6Vbk3MK3uWYbp8jl1hfunFmoxULuMYG3M6nq7A6lOHS3THUwxif1ZqHiDHwizuI61JEY7tFwLhMVtNP4hG3TmAQ6z0onaWw0zdsAa6kRuf4/s1600/a.bmp" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI . <br />
Trang Tử tên Chu, người nước Tống gần như cùng thời với Mạnh Tử, nhưng vì là một "ẩn giả", cho nên đời sau chẳng được rõ làm về thân thế cùng đời tư của Trang Tử. Tuy nhiên, trong giới trí thức Trung Quốc, xưa cũng như nay, ít có ai lại chẳng biết đến Trang Tử, bởi Người đã có trước tác để lại trên trăm ngàn lời, trong đó có rất nhiều truyện ngụ ngôn, liên quan tới đời sống bản thân của Trang Tử. Dù cho những truyện đó có thật hay giả tạo, cũng đã dựng lên một hình bóng Trang Tử sống động trong lòng người, lưu truyền trên lịch sử Trung Quốc hơn hai ngàn năm nay. Thật ra phần đông người Trung Hoa vẫn chưa rõ lắm về triết lý nhân sinh của Trang Tử, nhưng ai nấy đều thích nghe truyện Trang Tử. Từ đó, người ta cũng đã hiểu được phần nào, Trang Tử là một con người ra sao. <br />
Đời sống vật chất của Trang Tử rất ư nghèo nàn. Có lần mặc áo vá, kéo đôi giày rách, vào điện yết kiến Nguỵ vương. Vua hỏi: "Trông tiên sinh sao có vẻ mệt mỏi thế? Trang Tử đáp: "Tôi vốn nghèo,. nhưng chẳng mệt mỏi tí nào". Ý nói là, "tôi chỉ thiếu thốn về điều kiện vật chất bên ngoài thôi, trong thâm tâm tôi, vẫn chan chứa thiên cơ được vui sống như ai". Lại có lần, vì hết gạo nấu cháo, Trang Tử vác mặt đi hỏi vay vị Giám hà Hầu. Hầu bảo: "Được rồi chờ ta lãnh lương sê cho ban vay ba trăm nén vàng. Chịu không?" Trang Tử đáp lại bằng câu truyện: "Hôm qua, Chu này gặp kẻ hô hoán giữa đường, nhìn lại thấy dưới vết xe có con cá chép. Hỏi cá làm sao thế? Đáp rằng: Ta vốn là thần sóng ở biển đông, nay nhờ mi giúp cho một chậu nước, được chăng? Chu bảo: Được lắm, để ta nam du đến xứ Ngô, Việt, rồi dồn hết nước Tây giang mà đón ngươi. Chịu không? Cá giận thất sắc: Ta đã mất môi trường sinh sống bình thường, thiếu chỗ nương thân, chỉ cần một chậu nước thôi, chẳng ngờ mi lại nói như vậy, chi bằng xỏ mang ta xách vào chợ cá còn hơn". Đây, chỉ là câu truyện ngụ ngôn, nhưng cũng đủ cho ta thấy, đời sống vật chất của Trang Tử cùng quẫn đến mức nào rồi. Trong xã hội thời cổ Trung Quốc, vì điều kiện kinh tế còn thiếu thốn, phần đông thường dân sống trong cảnh nghèo túng. Phàm là người học trò, nếu muốn thoát cảnh nghèo khó, con đường duy nhất là ra làm quan. Sự thật đã chứng minh, thời đại đó có nhiều người học trò nhờ làm quan mà vinh thân phì gia, hoặc lưu danh sử sách. Nhưng chẳng may, trên đời lại có những hạng người, trời sanh ra không thể làm quan được, trong số đó, Trang Tử là nhân vật điển hình nhất, bởi Người coi phú quý như đám mây trôi, lắm khi phú quý còn là cạm bẫy của đời người nữa là khác. Có lần Trang Tử đang ngồi câu cá ở bờ sông Bốc, Sở vương sai hai vị Đại phu đến mời ra làm quan, Trang Tử vẫn thản nhiên cầm cần bảo: "Ta nghe đâu nước Sở có con rùa thần, đã chết đi ba ngàn năm rồi, nay được nhà vua dùng khăn lụa gói kỹ, đặt vào khay vàng thờ nơi miếu đường. Vậy theo các Ngài nghĩ, rùa muốn sau khi chết để lại xác quý như vậy, hay là thích lúc còn sống, được ngoáy đuôi dưới ao đìa?" Hai Đại phu đáp rằng: "Chắc chắn là thích ngoáy đuôi dưới ao đìa hơn". Trang Tử tiếp lời ngay: " Thế thì các Ngài để cho tôi được ngoáy đuôi dưới ao đìa thôi". "Ngoáy đuôi dưới ao đìa", là một câu nói tượng trưng cho đời sống tự do thoải mái, mà Trang Tử cho là quý hơn hết. <br />
Thời Chiến Quốc, đang lúc những người có học đua nhau đi du thuyết các nước, mong được quốc quân nào trọng dụng, hòng đạt được mục đích sang giàu, thì với Trang Tử, Người sẵn sàng trả giá rất đắt bằng cơ hàn suốt đời để được sống thảnh thơi giữa trời đất. Thiên Liệt ngự khấu, sách "Trang Tử" có đoạn viết ràng: "Lúc Trang Tử lâm chung, các đệ tử đang lo việc hậu táng thầy. Trang Tử bảo: "Ta có trời đất làm áo quan, có thái dương cùng trăng sao làm châu ngọc, và có cả vạn vật làm chay đưa đám, nào còn thiếu gì đâu mà các con phải lo?" Đệ tử thưa: "Nếu không được mai táng kỹ càng, chúng con e chim diều mổ xác thầy". Trang Tử bảo: "Thay vì nằm trên bị chim diều mổ xác, lại nằm dưới (mặt đất) để kiến mối phanh thây, vậy hơn kém ở chỗ nào". Suốt đời Trang Tử đối với bất cứ sự việc gì, đều giữ lấy thái độ khoáng đạt siêu nhiên, cả đến vấn đề chết cũng thế. <span class="info"><br />
</span></div><div style="text-align: justify;"><span class="info">2- Tư Tưởng của Trang Tử</span></div><div style="text-align: justify;"><span class="info">Trang Tử chẳng những là một nhà triết học, đồng thời cũng là một nhà văn tài hoa xuất chúng. Sách của Người viết ra, chẳng cần triều đình, đế vương giới thiệu như các văn sĩ khác, cũng được tuyệt đại đa số trí thức ưa chuộng. Qua cuộc đời tĩnh tu, ý tưởng siêu phàm, Trang Tử là một nhân vật có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn học Trung Quốc. Những "Tiêu diêu du”, "Hồ điệp mộng", đều là áng văn đẹp cả hình thức lẫn nội dung. <br />
Bởi tư tưởng của Trang Tử bắt nguồn từ triết lý Đạo giáo, cho nên sách "Sử Ký" đem Lão Tử cùng Trang Tử ghép chung vào một học phái, gọi là "Lão Trang". Thật ra, giữa Lão Tử và Trang Tử có nhiều điểm khác nhau. Điểm thứ nhất là, tư tưởng của Lão Tử được diễn tả theo phương thức "phân giải", cho nên cần phải biện bạch các yếu tố nội và ngoại, gốc và ngọn, thô với tế và biến với thường v.v... Vì vậy mà Lão Tử chưa thể đạt tới cảnh giới “Du tâm ngoại vạn hóa" (Thả hồn ra khỏi mọi sự vật). Trái lại Trang Tử phản đối mọi hình thức "tương đãi” (đối chọi), cho nên trong cảnh giới tinh thần của Người, chẳng cần phân biệt đâu là thô là tế, đâu là biến là thường, đâu là nội là ngoại, đâu là gốc là ngọn, mà chỉ có "Dự thiên hạ vi nhất". (Cùng với trời đất là một) và "Tinh thần tứ đại tịnh lưu, vô sở bất cực". (Xuất thần thơi thảnh bốn phương, chẳng nơi nào không thấu tới). Điểm thứ hai là, tuy rằng Lão Tử cùng Trang Tử, cả hai đều chủ trương "Phản phác quy chân (Sống chất phác giản dị, trở về với chân thật của thiên nhiên), nhưng với Lão Tử là thái độ phản ứng, bởi chán ghét những hiện tượng đấu tranh quyền lực, đời sống xa xỉ và tâm địa xảo trá của nhóm chính trị quyền thế. Riêng với Trang Tử thì vì lẽ khác, Người quý trọng giá trị chân chính của sinh mạng con người hơn tất cả. Cho nên Trang Tử cực lực chống lại chế độ và tập tục truyền thống, cho rằng những thứ đó, đều gây phương hại cho bản chất chân thật của mạng sống con người. Nói chung, tư tưởng của hai vị thánh tổ Đạo giáo, đều có ảnh hưởng sâu rộng đến nền triết học Trung Quốc, nhưng Lão Tử thuộc về lãnh vực chính trị nhiều hơn, còn Trang Tử thì thuộc về lãnh vực lẽ sống của con người. <br />
Tư tưởng của Trang Tử chứa đựng rất nhiều yếu tố khích động về tình cảm, lệch sang thái độ nhạo đời bởi hai nguyên do: Một là, dưới con mắt của Trang Tử, nhà Nho học Khổng Mạnh mong sao ổn định được thế cuộc rối ren, bằng luân lý đạo đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Nhạc v.v... Và nhóm theo Mặc Tử, thì bôn ba giữa các nước, kêu gọi hòa bình bằng thuyết "Kiêm ái phi công", đều là những chuyện làm phí công vô bổ, chẳng những không cứu vớt được ai, trái lại còn xúi cho "Khôn dại lừa nhau, trái phải đảo điên", càng làm cho thiên hạ rối thêm là đằng khác. Trang Tử ghét nhất là những kẻ khéo mồm ngụy biện, tự cho mình hiểu biết hơn ai. Cũng vì phủ định mọi giá trị biện luận về thị phi, nên Trang Tử có thái độ miệt thị trí thức, rồi chủ trương "Khí tri" (loại bỏ trí thức) y như Lão Tử vậy. Hai là, Trang Tử vốn người Tống (thuộc về miền đông tỉnh Hà Nam bây giờ), nằm vào vị trí, phía đông có Tề, Lỗ, bắc có Tấn, tây có Trịnh. Những nước này, nếu không là tôn thân (dòng họ bên nội), thì cũng là công thần hay ngoại thích (bà con bên ngoại) của nhà Chu. Riêng chỉ nước Tống vốn là dân Yên Thương tiên triều, bị nhà Chu chinh phục, lại độn vào giữa các nước thường hay chinh phạt, lấy đất Tống làm bãi chiến trường, khiến cho dân tình đói rét lầm than. Sống trong hoàn cảnh ác liệt đó, Trang Tử vừa cảm thấy thất vọng, vừa khao khát một lẽ sống tự do thư thới, tương xứng với giá trị con người hơn. <br />
Huệ Thi là một người bạn chơi thân với Trang Tử. Nhưng bởi Huệ Thi vốn là một kẻ sĩ có tài hùng biện, nên cứ mỗi lần gặp mặt, là hai đàng tranh luận kịch liệt, và mỗi lần cãi nhau như vậy, chẳng ai chiu ai, bởi tư tưởng đôi bên khác nhau quá xa. Tuy nhiên, trước sau họ vẫn giữ được tình bạn tương kính và khăng khít, chứng tỏ Huệ Thi là một phần tử trí thức tài trí và đức độ. Sách "Trang Tử” có ghi nhiều mẩu truyện giao du, bàn cãi giữa đôi bạn này, cụ thể nhất là, truyện Trang Tử cùng Huệ Thi đưa nhau đi du ngoạn trên cầu mương. Bỗng nhiên Trang Tử chỉ xuống mương bảo: "Những con cá tự nhiên ra bơi lội thơi thảnh, như vậy cá sung sướng lắm thay". Huệ Thi hỏi: "Bạn chẳng là cá sao biết được cá nó sung sướng?" Trang Tử hỏi ngược lại: "Bạn chẳng là tôi, sao biết tôi không hiểu được cá đang sung sướng?" Huệ Thi đáp: "Tôi không là bạn, cố nhiên chẳng hiểu nổi bạn, nhưng bạn vốn không là cá, chắc chắn là chẳng hiểu được cá rồi". Cuối cùng Trang Tử bảo: "Thôi, chúng ta nên trở lại với câu đầu tiên lúc nãy đi. Bạn bảo rằng tôi không thể hiểu được cá đang sung sướng, vân vân và vân vân. Sự thật là bạn vốn biết rõ tôi thông cảm với tánh cá mà lại muốn nói như vậy chứ gì. Tôi đã hiểu được cá ngay khi đặt chân lên bờ mương này". Qua đoạn cãi lý đó, chúng ta thấy sự khác biệt quá xa về tư tưởng giữa hai người. Sở dĩ Trang Tử nhận thấy cá sung sướng, là dựa vào cảm giác chủ quan, với mối tình không ngăn cách, giữa tâm hồn cởi mở của con người cùng vạn vật theo trực giác, giàu tính chất văn nghệ. Còn đằng này thì, Huệ Thi xét vấn đề đó với thái độ trí thức, dĩ nhiên là quan niệm của hai đàng không thể gặp nhau được. Do đó, dù là một nhà biện luận trứ danh, Huệ Thi cũng chưa hiểu nổi cảnh giới tâm linh của Trang Tử. Triết lý chính yếu nhất của Trang Tử là DIỆT THỊ PHI, CHÔNG ĐỐI Lập: Lý tưởng của Trang Tử, cũng là mục tiêu cuối cùng trong triết lý của Trang Tử là, mở rộng một bầu trời mới mẻ cho đời sống con người, trở lại với tình cảm chân thật của sinh mạng. Để đạt tới lý tưởng này, trước tiên Trang Tử cố gắng dẹp bỏ hết nhũng gì mà Người cho là chướng ngại vật ngoại giới. Đó là "quan niệm thị phi" và "quan niệm đối lập" mà người đời hay kiên trì. Vậy tại sao người ta có quan niệm thi Phi? Trang Tử nhận định rằng, một là người ta có ăn thành kiến, dù là do cố chấp theo ý riêng hay do phán xét qua kiến thức và kinh nghiệm. Lời phán định của một nhà nào đó, ắt là cái nhìn bầu trời qua một lỗ nhỏ. Khi có một nhà dùng cái nhìn qua lỗ nhỏ đó mà phê phán trăm nhà khác, thì làm sao chẳng gây nên cuộc tranh chấp kẻ thị (phải) người phi (trái)? Dù người ta có dựa vào kiến thức đê chứng minh cho sự việc thì cũng thế thôi, bởi vì kiến thức nào cũng có giới hạn cả, hai là do tình cảm tạo nên, một khi tình cảm của con người được biểu lộ ra, đều có liên quan đến dục vọng của họ, nói toạc ra là, tình người luôn luôn bị dục vọng chi phối, đó là chướng ngại vật bên trong. Người ta ai cũng có lòng thương ghét, lại bị chi phối bởi dục vọng, cho nên mới sanh ra chuyện phải trái, như vậy thì vấn đề thị phi nào có tiêu chuẩn khách quan. Để tránh phải tranh chấp nhau về thị phi, Trang Tử chủ trương "vô tình". Khi đã vô tình, thì người ta không bị lòng thương ghét liên lụy đến bản thân. Ba là do cố chấp. Khi người ta đã cố chấp, thì tự cho mình là cái rốn của vũ trụ, là tiêu chuẩn của thị phi, thậm chí còn là hóa thân của chân lý: Do đó, ai theo ta là phải, ai nghịch ta là trái. Thiết tưởng ai cũng cố chấp như vậy, thì cuộc tranh chấp chẳng bao giờ ngưng, rồi đâu là phải, đâu là trái, vẫn là câu hỏi muôn thuở. <br />
Đã thấy rô căn nguyên của thị phi rồi, Trang Tử còn giải thích thêm, những lý do không cần phải tranh luận về thị phi: Thứ nhất là, thị phi rất khó định mức, người nói theo lý lẽ của người, ta nói theo lý lẽ của ta, chẳng lẽ người ta đều sai hết, chỉ có mình là đúng thôi? Đối với Trang Tử, thật tình là chưa hề nghĩ tới vấn đề thị phi có tiêu chuẩn khách quan hay không, mà dù có đi chăng nữa, Trang Tử cũng bác bỏ như thường, bởi Người quan niệm thị phi là sự vật đối lập nhau, trái với bản chất của triết lý Trang Tử rằng là: "Tranh luận thị phi bao nhiêu, là làm tổn Đạo bấy nhiêu”. Bởi lẽ Đạo là nhất thể, không bài xích bất cứ một hiện tượng nào cả. Cho nên Trang Tử bảo rằng: "Tri thị phi chi bất khả vi phân, tế đại chi bất khả vi ni". (Ta thấy rõ điều thị phi rất khó phân định, như cái lớn với cái nhỏ vốn chẳng có manh mối nào). Thị phi là một hình thức trong hiện tượng đối lập mà Trang Tử chủ trương bài trừ. Hình thức đối lập rất nhiều, chẳng hạn như đẹp và xấu, thành và bại, khen và chê v.v... Nhưng theo cái nhìn của Trang Tử, thì vạn vật trời sanh chẳng có cái gọi là tốt hay xấu, thành hay bại, bới vạn vật do Đạo mà có (như Lão Tử đã viết trong Đạo Đức Kinh) chỉ là một, mọi sai biệt hay đối lập, đều được dung hòa quy hết về Đạo. Cho nên Trang Tử bảo rằng: "Dĩ Đạo quan chi, vật vô quý tiện". (Nhìn theo Đạo, thì vạn vật chẳng có phân biệt cái nào quý cái nào tiện), và rằng: "Vạn vật nhất tề, thục đoản thục trường". (Muôn vật ngang nhau, đâu có cái nào hơn, cái nào kém). Bởi lẽ, quý và tiện, hơn và kém đều là hình thức đối lập, mà Đạo thì siêu đối lập, cho nên nhìn theo Đạo là, vạn vật nhất tề, thấy quy về Đạo. <br />
Những lý luận bác bỏ mọi hình thức đối lập trên đây của Trang Tử, không thể hiểu theo quan điểm của thế giới chứng nghiệm được, vì trong thế giới chứng nghiệm, giữa vạn vật bao giờ cũng khác nhau giữa cái đẹp với cái xấu, cái thành với cái bại, cái hay với cái dở, thậm chí "Thiên hạ chẳng bao giờ có hai giọt nước như nhau”. Như vậy là, triết lý của Trang Tử chẳng có liên quan gì tới trí thức và kinh nghiệm, mà là hướng về trọng tâm khai thác vấn đề nhân sinh, nhắm mục tiêu đi tìm giá trị chân chính của mạng sống con người, để trở thành đấng "Chân Nhân", không bị hiện tượng bên ngoài chi phối. Từ đó, người đời sau tôn xưng những nhân vật tu tiên thành chánh quả là "Chân Nhân", như "Thái ất chân nhân", "Vô cực chân nhân",... "Chân nhân" tức là con người thật, chẳng có chút giả tạo nào, như kẻ múa may trên đời.</span></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><span class="info">3- Giá Trị Triết Lý Trang Tử</span></div><div style="text-align: justify;"><span class="info">Sách "Trang Tử" có đoạn tả về tâm lý con người rừng: "Nhân tâm bài hạ nhi tiến thượng, thượng hạ tù sát... kỳ nhiệt tiêu hỏa, kỳ hàn nghĩ băng". Hai chữ "Nhân tâm" đây là nói về tâm trạng con người đang mê muội, bị đắm chìm bởi hiện tượng nhân quả, để cho ngoại cảnh chi phối lòng mình. "Bài hạ nhi tiến thượng" là tả về tâm trạng con người, phản ảnh mạnh mẽ, khi bị kích thích bởi hiện tượng ngoại giới, chẳng hạn như người ta phấn khởi, hớn hở khi thành công hay được tiếng tốt, đó là "tiến thượng"; ngược lại gặp lúc thất bại hay bị chê bai thì buồn bã, chán nản, đó là "bài hạ": Hiện tượng tâm trạng khi lên khi xuống như vậy đều do ngoại cảnh dẫn tới, nói cách khác, là người ta luôn luôn bị ngoại vật rằng buộc, thậm chí còn sát hại nữa là khác, cho nên bảo là "thượng hạ tù sát". Nghĩa là khi lòng người bị kìm kẹp trong khung cảnh phản ứng bởi những kích thích bên ngoài, thì không thể hoàn toàn tự chủ được, đắc chí thì vui tươi phấn khởi, "kỳ nhiệt tiêu hỏa" (nóng hổi như lửa đỏ) thất ý thì buồn nản vô cùng, "kỳ hàn nghĩ băng" (lạnh ngất tựa nước đá). Trang Tử nhận thấy tâm trạng con người lúc thăng lúc trầm, khi nóng khi lạnh một cách vô định như vậy, thật là điều đáng thương hại. Cho nên người cố gắng tìm một lối thoát cho người đời, bàng cách cứu vớt nhân tâm ra khỏi hiểm cảnh "thượng hạ tù sát", quy về với cảnh giới "Chân nhân" hư tĩnh, thanh đạm, tịch mạc, vô vi. Qua sự phân tách trên đây cho ta thấy rõ hơn, giá trị triết lý Trang Tử Ơ vào chữ "Tâm". Tâm đây, hiểu theo nghĩa của Trang Tử là nội tâm con người, là chủ thể của sinh mạng. Với nhà Nho, Tâm là nguồn gốc đạo đức, giá trị xã hội; với Trang Tử, Tâm là trạng thái hoạt động tâm lý rất phức tạp của con người, tức là hiện tượng Nhân quả do tình cảm, tư duy và cả ảo tưởng tạo nên. Nếu tâm hồn của người nào đó bị đắm chìm trong bể khổ nhân quả, thì Trang Tử coi như "Cận tử chi tâm" (Thứ tâm đã gần chết đi rồi), bởi vì nó khiến cho người ta, lúc nào cũng phập phồng lo âu, ngày đêm tư lự. Rút cuộc là lao tâm tổn thần, làm mỏi mòn sinh mạng của con người. Kịp lúc ngoảnh đầu nhìn lại, thì thấy tất cả đều trống không, chẳng hiểu mình đã đến từ đâu và sẽ đi về đâu. Cho nên Trang Tử cố gắng tìm cách giải thoát tâm hôn con người ra khỏi cương tỏa Nhân quả đó, ai nấy trở lại với bản ngã, chân ngã một cách tự do tự chủ, tội gì mà cứ phải đóng kịch đời, thành ra con người hai mặt, thậm chí muôn mặt, từ hạng chính khách cho đến kẻ phàm phu tục tử. <br />
Giá trị triết lý Trang Tử ở vào ý nghĩa tồn tại của con người. Vậy con người ta tồn tại có ý nghĩa gì? Như đã trình bầy ở phần trước, mục tiêu cuối cùng của Trang Tử là mở ra một khung cảnh mới mẻ cho nhân sinh, vậy khung cảnh đó như thế nào? Hiểu được nội dung khung cảnh đó, là hiểu được ý nghĩa tồn tại của con người theo triết lý Trang Tử. Sách "Trang Tử có mô tả nhiều khía cạnh trong tân cảnh giới nhân sinh đó như sau (dịch nôm): <br />
- Sống như bậc Thần... mà ngao du ngoài bốn biển. <br />
- Là bậc Thánh, chẳng phải lo việc phàm tục... ngao du ngoài cõi trần ai. <br />
- Tinh thần thông đạt bốn phương, chẳng nơi nào không tới được. <br />
- Trời đất sống chung với ta, vạn vật cùng ta là một. <br />
- Tinh thần giao cảm vãng lai với trời đất, nhưng không coi thường vạn vật. <br />
- Cá quên mọi thứ nhờ có sông ngòi, người quên mọi việc nhờ có đạo thuật (thuật tu tiên) </span></div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-78738673780933037572010-10-08T02:25:00.000-07:002010-10-08T02:25:57.373-07:00MẠNH TỬ<div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhvdtbekb4uJbN0iMyxmwIXMgow_Ad6-pH_xgvtNfiTtN4m7WpmgTz61qbPprRwDNC4ujTV_o00AlWO5P2dAEXplyLKRbPIEkYqWYX-pjblLO_GxHbdI1zLSI_DBopdhngZj-hhvwCSYh0/s1600/mencius.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="224" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhvdtbekb4uJbN0iMyxmwIXMgow_Ad6-pH_xgvtNfiTtN4m7WpmgTz61qbPprRwDNC4ujTV_o00AlWO5P2dAEXplyLKRbPIEkYqWYX-pjblLO_GxHbdI1zLSI_DBopdhngZj-hhvwCSYh0/s320/mencius.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">372 – 289 trước Công Nguyên </div><div style="text-align: justify;"><br />
1. Sơ Yếu Cuộc Đời<br />
Mạnh Tử họ Mạnh tên Kha, tự Tử Dư, sanh vào năm thứ tư Chu liệt Vương, 372 tr. CN. Sau 107 năm, tính từ khi Khổng Tử qua đời. Người ta được biết về thân thế của Mạnh Tử, có phần ít hơn Khổng Tử, nhất là chẳng ai được rõ đời sống thời thơ ấu của Người ra sao. Tục truyền về truyện "Mạnh mẫu (mẹ thân sanh Mạnh Tử) tam thiên". (Để chọn láng giềng tốt cho Mạnh Tử, bà mẹ đã phải dời chỗ ở những ba lần), theo kết quả khảo cứu, thì chẳng có sự thật đó. <br />
Mạnh Tử vốn là hậu duệ của Mạnh Tôn, thuộc dòng dõi Lỗ công, vì đã di cư sang xứ Châu (nước nhỏ phụ thuộc vào Lỗ), nên coi như là người Châu. Mạnh Tử theo học thầy Tử Tư từ thuở trẻ (Tử Tư là cháu nội của Khổng Tử), bình sinh lấy việc tuyên dương đạo Khổng làm chí hướng, cho nên đến thời trung niên, cũng như Khổng Tử đời trước, chu du qua nhiều nước như Tống, Tuyết, Tề, Nguỵ, Lỗ, Châu, Lương v.v... Căn cứ theo sách "Mạnh Tử", thì những nhân vật chính trị đương quyền mà Mạnh Tử đã được tiếp xúc là Lương Huệ Vương, Lương Tương Vương, Tề Tuyên Vương, Châu Mục Công và Đằng Văn Công. <br />
Trong lịch trình chu du liệt quốc, Mạnh Tử đến nước Lương vào năm 320 tr. CN bởi lúc đó, Lương Huệ Vương đang chiêu sính hiền sĩ bốn phương. Khi Mạnh Tử bệ kiến Lương Huệ Vương, câu đầu tiên vua Lương nêu ra ngay, là vấn đề có tính cách tiêu biểu cho các quốc gia đương thời: "Hà dĩ lợi ngô quốc?" (Làm sao để có lợi cho nước ta?). Đứng vào lập trường của nhà cầm quyền, Lương Huệ Vương coi trọng vấn đề công lợi vì nước, chẳng có gì là sái cả, nhưng với một hiền sĩ coi nhân nghĩa là lý tưởng cao cả nhất như Mạnh Tử, thì đó là điều hại, cho nên đã xây ra cuộc tranh luận dữ dội về Nghĩa và Lợi, giữa Lương huệ Vương cùng Mạnh Tử. Khi đã kiên trì giá trị Nhân Nghĩa cao hơn công lợi, thì lời của Mạnh Tử không thể nghe lọt vào tai vua Lương được, Người đành tạm thời lưu lại nước Lương, để chờ cơ duyên khác. Sang năm sau Huệ Vương mất, con là Tương Vương lên kế vị, Mạnh Tử lại được triệu kiến vấn chính, nhưng đã bỏ Lương sang Tề, bởi hoàn toàn thất vọng với Lương tương Vương, "Trông thì chẳng giống một vị chúa, gần thì chẳng thấy có uy nghi tí nào” như lời Mạnh Tử đã đánh giá. <br />
Kịp đến nước Tề, vào yết kiến Tề Tuyên Vương, vua Tề ngỏ ý muốn bàn về sự tích bá nghiệp của Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công thuở trước (Hai vì vua này, từng xưng bá vào thời Xuân Thu), biểu lộ điều mà vua Tề mong muốn, hẳn là "Phú quốc cường binh". Song, Mạnh Tử vốn chẳng tán thành lối phú cường của hai vị bá chủ đó, bèn nói lảng sang đề tài khác bằng lời lẽ biện minh khôn khéo, mong thuyết phục được Tề tuyên Vương chấp nhận chủ trương "Vương đạo" của mình. Thuyết Vương đạo mà Mạnh Tử chủ trương, là một lý tưởng chẳng cao xa lắm, mục tiêu chính trị Vương đạo, chẳng qua là yêu cầu "Người già cả được ăn ngon mặc đẹp, lê dân chẳng ai bị đói rét". Lý tưởng đó tuy khá khiêm tốn, nhưng vào thời Chiến Quốc, khói lửa không ngừng, thì dễ ai có thể đạt được? Tề Tuyên Vương tuy không hoàn toàn đồng ý với lý luận của Mạnh Tử, nhưng hết sức thán phục tài hùng biện của Người, nên đã mời ở lại làm Quốc khanh (Tương đương với địa vị cố vấn cao cấp thời nay) . Lúc Tề Tuyên Vương vạch kế hoạch toan tính đánh lấy nước Yên, có thỉnh ý Mạnh Tử, Người trả lời rằng: "Thủ chi nhi Yên dân duyệt, tắc thủ chi; thủ chi nhi Yên dân bất duyệt, tắc vật thử . (Lấy mà dân Yên vui lòng, thì nên lấy; nếu lấy mà dân Yên chẳng vui lòng, thì chớ lấy). Nhưng Tề tuyên Vương đã bất chấp dân Yên có vui lòng hay chăng, cứ dùng võ lực cưỡng chiếm nước Yên vào năm 314 tr. CN Đến chừng dân Yên đùng đùng nổi dậy chống Tê, thì Tuyên vương mới hối tiếc đã không nghe theo lời khuyến cáo của Mạnh Tử. Giai đoạn đầu, Mạnh Tử lưu trú ở Tề chẳng được bao lâu, thì về Lỗ chịu tang mẹ. Ba năm sau, khi mãn tang trở lại Tề, tiếp tục ở đến năm 315 tr. CN người Yên dấy loạn, mới bỏ Tề sang Đằng (Có truyền thuyết khác là, lúc đó Mạnh Tử đi làm quan Đại phu ở nước Nguỵ). Tại Đằng, mặc dù Mạnh Tử có dịp phát biểu nhiều luận thuyết quan trọng, nhưng ngặt vì Đằng là một nước nhược tiểu, chu vi chỉ được có năm mươi dặm, lại nằm vào giữa hai đại cường là Tề và Sở, cho nên, thật tế chẳng có tác dụng gì cho lắm. Chẳng bao lâu thì Mạnh Tử nhận lời mời của Lỗ Bình Công, trở về cố quốc, song, bởi có kẻ nói xấu, thọc gậy bánh xe, rút cuộc chẳng được gặp mặt Bình Công. <br />
Kể từ năm 52 tuổi, Mạnh Tử bắt đầu du hành sang nước Lương, cho đến cuối cùng quay về nước Lỗ, đã trải hơn hai mươi năm mà chẳng lìm được vị minh chúa nào có đồng chí hướng, để thực hiện lý tưởng Vương đạo. Chừng tuổi đã già thì trở về xứ Châu, nơi chôn nhau cắt rốn, tu thân và dạy học, y như Khổng Tử thuở trước vậy. Đến năm 84 tuổi thì Mạnh Tử mất, thọ hơn Khổng Tử mười một tuổi đời. </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">2- Luận Thuyết Của Mạnh Tử</div><div style="text-align: justify;">Trong sách "Mạnh Tử", có đến hai mươi chín chỗ trích dẫn lời của Khổng Tử, chứng tỏ Mạnh Tử sùng bái Khổng Tử gần như tuyệt đối, coi Khổng Tử là Thánh tổ, tự đặt mình vào cương vị của kẻ có sứ mạng truyền bá Khổng học. Sự thật là ở thời Mạnh Tử, phạm vi ảnh hưởng của đạo Nho vẫn còn hạn hẹp, so với Đạo gia và Mặc gia, thậm chí với Pháp gia, hãy còn đứng vào vị thế yếu kém, nhờ vào tài hùng biện và tư tưởng bén nhạy của Mạnh Tử mới đem lại cho Nho học đương thời, có được một chỗ đứng tương xứng. <br />
Quan niệm "Đạo thống" (Đạo lý của nền văn hóa truyền thống) của nhà Nho, bắt nguồn từ lập luận "lý tưởng hóa cổ Đế của Khổng Tử. Lập luận đó có nghĩa là, Khổng Tử đưa các vị cổ Đế Nghiêu, Thuần, và Hạ Ngu vào khuôn mẫu tiêu biểu cho nhà Nho, coi chính cổ Đế là người lãnh đạo thực tiễn đạo Nho, cho nên mới tạo được cục diện thái bình thịnh trị, rất có lợi cho việc tuyên dương, truyền bá Nho học. Quan niệm "Đạo thống" trên đây, khi truyền tới tay Mạnh Tử, thì trở thành khuôn mẫu cố định của nhà Nho. Hơn nữa, khi luận về đức tính cao cả của bậc thánh chúa, vĩ nhân an bang tế thế, ngoài ba vị cổ Đế Nghiêu, Thuấn, Ngu ra, Mạnh Tử còn kê thêm vua Thang, (Chu) Văn Vương, (Chu) Võ Vương cùng với Chu Công, Khổng Tử nữa. Cũng bởi Mạnh Tử đã đem "Đạo thống" của nhà Nho, đóng khung thành "Thường Đạo" một cách máy móc, cho nên Người đã mạnh tay bác bẻ các học thuyết khác, bất chấp giá trị của họ ra sao, đều coi như dị thuyết, thậm chí là tà thuyết. Lời phê phán như vậy tuy có thiếu công bằng, nhưng cũng chứng tỏ Mạnh Tử hết sức trung thành với đạo Nho. <br />
Điểm rất quan trọng trong luận thuyết của Mạnh Tử là, nhận định con người "Tánh bản thiện". Người bảo rằng? "Trắc ẩn chi tâm, nhân giai hữu chi; tu ác chi tâm, nhân giai hữu chi; cung kính chi tâm, nhân giai hữu chi; thị phi chi tâm, nhân giai hữu chi". (Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn, ai cũng có lòng thẹn ác, ai cũng có lòng cung kính, ai cũng có lòng thị phi), rồi giải thích thêm rằng: "Trắc ẩn chi tâm, nhân giã; tu ác chi tâm, nghĩa giã; cung kính chi tâm, lễ giã; thị phi chi tâm, trí giã. Nhân, nghĩa, lễ, trí, phi do ngoại thước ngã giã, ngã cố hữu chi giã". (Lòng trắc ẩn đó là nhân, lòng thẹn ác đó là nghĩa, lòng cung kính đó là lễ, lòng thị phi đó là trí. Nhân, nghĩa, lễ, trí, không do bên ngoài hun đúc ta, mà là vốn đã có sẵn trong lòng ta. Sau Mạnh Tử, các nhà Nho thêm chữ "Tín" của Khổng Tử vào, gộp thành "Nhân, Nghĩa, Lê, Trí, Tín", năm đức tính căn bản của đạo Nho. <br />
Khổng Tử nhấn mạnh chữ NHÂN, Mạnh Tử coi trọng chữ NGHĨA. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đời khinh nghèo chê hèn, Mạnh Tử cực lực chống lại bằng cách đề cao đức tính "Cùng bất thất nghĩa, đạt bất ly đạo". (Dù có nghèo cũng không mất nghĩa, khi đã khá cũng giữ đúng đạo). Mạnh Tử đã nghèo suốt đời, cũng vì "Bất thất nghĩa, bất ly đạo", nhưng Mạnh Tử cũng nhờ kiên trì tâm niệm "Bất thất nghĩa, bất ly đạo" đó, mới trở thành nhân vật bất hủ. Qua những trang lịch sử, chúng ta thấy có kẻ tranh nhất thời, có kẻ giành thiên thu, khác nhau chỉ một chữ NGHĨA mà thôi. <br />
Tư tưởng của Mạnh Tử có phần tân tiến, giầu tinh thần dân chủ hơn Khổng Tử, như khi luận về cách cư xử giữa quân thần (chúa tôi), Khổng Tử thường đặt nặng về phần bề tôi phải như thế nào, chẳng hạn: "sự quân tận lễ" (Thờ chúa phải tận trung theo lễ) và "Dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ" (Lấy đạo mà thờ chúa, nếu chẳng đạt thì thôi). Ngược lại, Mạnh Tử thiên trọng về phần quân vương nên làm sao, như câu: "Hiền quân tất cung kiệm lễ hạ". (Chúa hiền chắc chắn là người biết kính cẩn, tiết kiệm và trọng kẻ dưới). Hơn ni74a còn có ý thức dân chủ sơ bộ như câu: "Dân vi quý, quân vi khinh". Cho nên Người đã khuyến cáo bậc sĩ phu, khi "Lễ mạo suy, tắc khử chi". (Khi chúa đối với ta thiếu lễ độ, thì nên bỏ đi ngay). Như vậy là, Mạnh Tử còn "Quân tử" hơn Khổng Tử nữa. Trong thời gian Mạnh Tử Ở nước Đằng, Đằng Văn Công có hỏi: "Phải làm thế nào mới trị nước được tốt?" Thưa rằng: "Việc dân chính chớ nên trì hoãn... Đạo vì dân là, hễ (dân) có hằng sản là có hằng tâm, vô hằng sản thì vô hằng tâm. Một khi (con dân) đã không có hằng tâm, thì đâm ra phóng đãng, tà xỉ, chuyện gì mà chẳng dám làm. Chừng dân can vào tội, rồi bị hình phạt, thì còn đâu là dân lành". Tư tưởng này của Mạnh Tử rất ăn khớp với câu "Tiên phú hậu giáo" của Khổng Tử, đều chủ trương dành quyền tư hữu tài sản cho dân. Đó là vấn đề căn bản nhất trong xã hội loài người, xưa cũng như nay, mà đòi hỏi tối thiểu là "Dân dĩ thực vi thiên". (Chữ THIÊN đây là Trời, có nghĩa là cao hơn hết, quan trọng nhất. Nhưng có nhiều người hay hiểu lầm câu này ra thành "Dân dĩ thực vi tiên" TIÊN đây nghĩa là trước tiên). Khi vua Đằng hỏi ý kiến về chế độ Tĩnh điền" (Chia ruộng ra làm chín thửa như hìnhchữ "Tĩnh", cho tám hộ làm, khu chính giữa là công điền, do tám hộ hợp sức canh tác, phần thu hoạch đó thuộc về của công) của nhà Chu, thì Mạnh Tử đáp: "Chính trị nhân đức, được bát đầu từ chỗ có ranh giới... Khi ranh giới đã rõ, rồi chia lộc hưởng theo phần, là xã hội ổn định". Xem đó, mặc dầu Mạnh Tử cực lực đề xướng "Vương đạo , hy vọng có một tân chính quyền đứng lên thống nhất thiên hạ, đang lâm vào tình trạng rối ren, nhưng cũng muốn tân chính quyền đó, vẫn giữ lại phần nào chế độ cũ. Điểm này cho thấy, Mạnh Tử không bác bỏ toàn bộ lý tưởng phục hưng văn hóa nhà Chu của Khổng Tử. Nhưng chẳng may, đời sau nhóm Tống Nho ngộ nhận là, đạo Nho nhất thiết phải bảo thủ nền văn hóa truyền thống, biến họ thành những nhà trí thức "không tưởng", trước vấn đề chính trị thực tế, nên bị mang tiếng là "Hủ Nho". </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">3- Công Tích Của Mạnh Tử Đối Với Nho Học</div><div style="text-align: justify;">Triết lý Nho học được khởi xướng từ Khổng Tử, nhưng người hoàn chỉnh bước đầu, hệ thống hóa tư tưởng Nho học đó là Mạnh Tử. Trong buổi đang có nhiều học phái cạnh tranh, mà Nho học giành được chỗ đứng vững vàng, tiếp tục bành trướng sức ảnh hưởng trong xã hội. Trung Quốc thời phong kiến, cũng là nhờ Mạnh Tử có nhiều sáng kiến bổ khuyết, đi du thuyết nhiều nước và chăm dạy học trò, chẳng kém gì Khổng Tử trước đó cả trăm năm. <br />
Tuy là kẻ thừa kế đạo Nho của Khổng Tử, nhưng Mạnh Tử biết linh động, thích ứng với thời thế, đưa ra đúng lúc quan mềm mới, làm tăng giá trị thực dụng cho Nho học. Điểm khác biệt lớn nhất về thế cuộc là, thời Xuân Thu, vương quyền nhà Chu tuy có suy vi thật, nhưng chư hầu vẫn còn tiêu biểu chung một lý tưởng là, "Tôn vương nhương di". (Tôn thờ vương thất nhà Chu, chống ngoại tộc xâm nhập). Một mặt, bề ngoài vẫn coi nhà Chu là chúa chung, mặt khác, giữa các nước Chư hầu, cố gắng giữ thế quân bằng, mong được sống chung hòa bình với trật tự hiện hữu. Cục diện chính trị quốc tế đó, là nguyên nhân chính, khiến Khổng Tử chủ trương duy trì chế độ cũng như văn hóa nhà Chu, mà Chu công là người có công sáng lập nhiều nhất. Sang đến thời Chiến Quốc, thì tình thế đã thay đổi hẳn. Lúc đó, về mặt chính trị, hệ thống cai trị của tập đoàn quý tộc đã tan rã, chế độ phong kiến bắt đầu băng hoại, dù là bá chủ cũng chẳng làm gì được cho thiên hạ nhờ; về mặt xã hội, thì đức Lễ, Tín chẳng còn, trật tự tôn pháp và thuần phong mỹ tục không ai tôn trọng nữa; về mặt tư tưởng học thuật, cũng chẳng đơn thuần như thời Khổng Tử, bởi phong khí du thuyết rất thịnh, từng tập đoàn sĩ phu đã bắt đầu hình thành giai cấp mới, trong khi các học phái tranh đua nhau quyết liệt hơn. <br />
Thời Khổng Tử, tuy đã có Đạo học của Lão Tử, nhưng hai học phái ít có xung đột nhau, Khổng Tử còn hạ mình vấn lễ cùng Lão Tử nữa. Nhưng vào thời Mạnh Tử, thì đã có nhiều học thuyết khác nhau ra đời, chủ trương trái ngược với đạo Nho, buộc Mạnh Tử phải lớn tiếng bài bác họ, phê phán họ, nhất là đối với Dương Chu và Mặc Địch, Mạnh Tử cho rằng, "Dương Mặc chi đạo bất tức, Khổng Tử chi đạo bất trứ". (Nếu đạo của phái họ Dương, họ Mặc không dẹp đi, thì đạo của Đức Khổng chưa thể sáng tỏ được) <br />
Như đã nói trên, ngoài đức NHÂN ra, Mạnh Tử rất chú trọng về đức NGHĨA. Người đã bảo: "Sinh diệc ngã sở dục giã, nghĩa diệc ngã sở dục giã, nhị giả bất khả đắc kiêm, xá sinh nhi thủ nghĩa giả giã". (Sống ta vốn muốn mà nghĩa ta cũng cần. khi không thể trọn lẽ đôi bề, thì xá sinh mà giữ lấy nghĩa vậy). Cái khó nhất của người đời, là thường gặp trường hợp bắt buộc phải chọn lựa. Điều Mạnh Tử nêu ra, là điều chọn lựa sinh tử, hệ trọng nhất trong đời người: nên giữ mạng hay giữ nghĩa? Trên lịch sử, biết bao nhân vật vĩ đại phải trải qua thử thách lớn lao, nhiên hậu mới trở thành vĩ nhân. Cho nên Mạnh Tử hô hào phần tử trí thức, khi trực diện với vấn đề sinh tử, thì phải đủ can đảm giữ lấy tiết nghĩa hơn là mạng sống, nếu thiếu tinh thần đó, thì chẳng bao giờ dám hy sinh cho lý tưởng cao cả. <br />
Tóm lại, công tích của Mạnh Tử trong công trình xây dựng hệ thống Nho học, cực kỳ lớn lao, cho nên địa vị của Mạnh Tử trong Nho học, chỉ có dưới một người là Khổng Tử thôi. Do đó, người ta thường gọi chung Nho học là đạo Khổng - Mạnh. </div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-9368317079758460042010-10-08T02:19:00.000-07:002010-10-08T02:19:31.219-07:00ĐƯỜNG CÁCH MỆNH VỚI VIỆC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ-NIN VÀO VIỆT NAM<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhF-XiZCFZZz2pv03158QZZBnoxIxdY-PF-mYm7JJpxc2tgZ8SKjyGL-e63urnnrhuCFnxFaKkCoyRkHTIzGkZSJ5xUTK-sUV5FtM7D09zvj5wJuPDXcVSBp3Evc2H5b3bjdIrqCQVBMis/s1600/hochiminh.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="220" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhF-XiZCFZZz2pv03158QZZBnoxIxdY-PF-mYm7JJpxc2tgZ8SKjyGL-e63urnnrhuCFnxFaKkCoyRkHTIzGkZSJ5xUTK-sUV5FtM7D09zvj5wJuPDXcVSBp3Evc2H5b3bjdIrqCQVBMis/s320/hochiminh.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Kỷ niệm 80 năm tác phẩm Đường cách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông xuất bản (1927 - 2007), bài viết này góp phần làm sáng tỏ những hình thức và nội dung mà Nguyễn Ái Quốc lựa chọn để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam; đồng thời thấy rõ ý nghĩa của vấn đề này đối với việc giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. </em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"> - Về mục đích và phương pháp </div><div style="text-align: justify;">Đọc Đường cách mệnh, dễ dàng thấy rõ mục đích của tác giả qua mục: Vì sao phải viết sách này?. Về hình thức trình bày của sách, điểm 6 của mục này viết: "Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có người sẽ chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả"[1]. Tác giả đã lý giải vì sao mà văn chương có thể bị chê là cụt quằn và vì sao mà phải viết cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ, giản tiện, mau mắn và chắc như 2 nhân với 2 là 4. Đó là vì: "Hơn sáu mươi năm nay, đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp trên đầu; hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu rảnh mà vẽ vời trau chuốt!...</div><div style="text-align: justify;">Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!"[2]. </div><div style="text-align: justify;">Trong Đường cách mệnh, tác giả không chỉ chú ý tới cộng đồng dân tộc với đa số cư dân mù chữ là đối tượng được tuyên truyền, mà còn với cả những người đi tuyên truyền cuốn sách cũng không phải gồm những người có trình độ học vấn cao trong xã hội bị chế độ thực dân thống trị. Bởi vậy, những hình thức trình bày mà tác giả nêu ra khi viết cuốn sách không chỉ cho đối tượng được tuyên truyền mà còn thuận lợi cho cả người đi tuyên truyền cuốn sách. Sự vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ, giản tiện, mau mắn và chắc như 2 nhân 2 là 4 trong hình thức thể hiện của cuốn sách biểu thị tính mục đích cao của Đường cách mệnh, và đó chính là phương pháp Hồ Chí Minh trong tuyên truyền cách mạng, là quan điểm Nguyễn Ái Quốc khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam thông qua sách Đường cách mệnh. Đó không chỉ là những yêu cầu đối với hình thức của cuốn sách mà đồng thời còn là yêu cầu cơ bản về nội dung trong cuốn sách. </div><div style="text-align: justify;">2 - Sự lựa chọn nội dung</div><div style="text-align: justify;">Những nội dung của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được viết trong Đường cách mệnh để truyền bá vào Việt Nam phải bảo đảm yêu cầu vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ, giản tiện, mau mắn và chính xác là bao gồm những vấn đề gì và được tác giả thể hiện vào cuốn sách như thế nào? </div><div style="text-align: justify;">Sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Đường cách mệnh là một cuốn sách "phác thảo đường lối cứu nước"[3], nhưng "là tư tưởng cốt lõi trong con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc"[4] và chỉ ra nội dung sách gồm 6 vấn đề: Một là, chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đa số dân chúng. Hai là, mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Ba là, về lực lượng cách mạng. Bốn là, về phương pháp cách mạng. Năm là, đoàn kết quốc tế. Sáu là, cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng. </div><div style="text-align: justify;">Từ việc phân tích 6 nội dung trên, sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam viết: "Không những Nguyễn Ái Quốc nắm vững thực chất chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà ngay từ đầu đã biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng nước mình"[5]. </div><div style="text-align: justify;">Sách Hồ Chí Minh - tiểu sử[6] cũng xác định rằng: Đường cách mệnh đã "trình bày những điều cốt lõi của học thuyết cách mạng Mác - Lê-nin và phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam dưới dạng dễ hiểu nhất" và chỉ ra nội dung của Đường cách mệnh về cơ bản thống nhất với nội dung mà sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ở trên. </div><div style="text-align: justify;">Điểm khác trong hai cuốn sách này là: trong khi sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam không nói tới mục Tư cách một người cách mệnh thì sách Hồ Chí Minh - tiểu sử lại coi mục Tư cách của người cách mệnh là nội dung trước hết của tác phẩm. Sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam không giới thiệu mục "các tổ chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản" đã được trình bày như những mục riêng trong sách Đường cách mệnh nhưng sách Hồ Chí Minh - tiểu sử - tuy không nói tới việc cuốn sách trình bày về mục Quốc tế, (nói tới các tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân trong đó có Đệ tam quốc tế - tức Quốc tế Cộng sản - nhưng lại nhấn mạnh tới việc: "Đường cách mệnh giới thiệu các tổ chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản như Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Nông dân, Quốc tế Cứu tế đỏ, hướng quần chúng nhân dân ta tổ chức theo mẫu hình đó và tham gia, ủng hộ các tổ chức quốc tế nói trên"[7].</div><div style="text-align: justify;">(Nhưng chưa rõ tại sao hai cuốn sách trên không đề cập tới mục Hợp tác xã có trong phần cuối cùng của cuốn Đường cách mệnh!?)</div><div style="text-align: justify;">Nêu lên mấy nét trên không phải với mục đích chỉ ra sự khác biệt cụ thể của hai cuốn sách này, mà để thấy, không phải những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc cho là vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ, giản tiện, mau mắn, chính xác và chắc chắn, theo cách suy nghĩ và do chính Người trình bày, có thể dễ tiếp thu, dễ truyền bá; mà ngày nay, do cách tiếp cận, dường như chúng ta không những chưa lĩnh hội đầy đủ về nội dung cuốn sách, mà còn chưa chỉ ra được yêu cầu vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ, giản tiện, mau mắn và chính xác về nội dung của cuốn sách như thế nào. </div><div style="text-align: justify;">Theo cách tiếp cận của chúng tôi, có thể thống nhất nội dung nhận xét về tinh thần của cuốn sách Đường cách mệnh với sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh - tiểu sử đã trình bày ở trên (nội dung thực chất, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong sách Đường cách mệnh), nhưng những nội dung vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ và chính xác, biểu hiện thực chất, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Nguyễn Ái Quốc trình bày như thế nào trong sách Đường cách mệnh? </div><div style="text-align: justify;">Trong Đường cách mệnh, trước khi viết cụ thể về mục đích của cuốn sách, tác giả luận giải rằng: việc gì muốn thành công đều phải "ra sức", phải "bền gan", phải "đồng tâm" và muốn có được điều đó "phải hiểu rõ vì sao mà phải làm, vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay không nên người này ngồi chờ người khác. Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng"[8]. Với quan điểm chung như vậy, tác giả xác định rằng: "Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. (3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?"[9].</div><div style="text-align: justify;">Sáu mục đích này đồng thời cũng là 6 vấn đề về nội dung mà Nguyễn Ái Quốc đã trình bày trong Đường cách mệnh.</div><div style="text-align: justify;">Vậy, nội dung của cuốn Đường cách mệnh, với cách nhìn hiện nay, phải trở lại đúng tên gọi những vấn đề chủ yếu của nội dung mà Nguyễn Ái Quốc đã viết trong sách. Chỉ có như thế mới có thể hiểu rõ được tại sao trong 6 vấn đề trên đây, Nguyễn Ái Quốc lại nhấn mạnh chữ cách mệnh đến như vậy, và chúng ta cũng có thể hiểu hơn khi Người viết: "Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!". </div><div style="text-align: justify;">Những vấn đề trên cho thấy: 1. Nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà </div><div style="text-align: justify;">Nguyễn Ái Quốc lựa chọn đưa vào sách để truyền bá vào Việt Nam là những vấn đề nhằm tạo ra niềm tin cho người được tuyên truyền đối với cuộc cách mạng mà họ sẽ tin theo và tiến hành. 2. Những nội dung căn bản đó của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thông qua Nguyễn Ái Quốc, có thể nói là đã được Nguyễn Ái Quốc hóa (chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Nguyễn Ái Quốc hóa), trở nên hết sức vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ, chính xác bằng việc trình bày thông qua cách lí giải ngắn gọn và bằng những sự thật lịch sử, do đó đạt cả yêu cầu cho người truyền đạt và người được tuyên truyền. Phương thức này vừa tạo ra sự gợi ý vừa mở ra hướng trả lời thông qua sự tự lựa chọn - lựa chọn lịch sử của người được tuyên truyền mà không cần áp đặt vào đó minh chứng về tính đúng đắn của chủ thuyết được tuyên truyền. Điều đó đánh thức sự chủ động, năng lực lựa chọn để khẳng định niềm tin đưa tới sự tự nguyện và khả năng sáng tạo của mỗi con người và cao hơn là một cộng đồng dân tộc về con đường tiến lên của mình. 3. Những nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin sau khi được Nguyễn Ái Quốc hóa lại được Người vận dụng cụ thể và rất tinh tế vào hoàn cảnh nước ta thông qua và bằng một loạt câu hỏi như: Ý nghĩa của cách mạng Mỹ với cách mạng An Nam thế nào? Cách mạng Pháp đối với cách mạng Việt Nam thế nào? làm gương cho chúng ta về những việc gì? Cách mạng Nga đối với cách mạng Việt Nam thế nào? Đệ tam quốc tế đối với cách mạng Việt Nam thế nào? Quốc tế này đối với cách mạng Việt Nam ra thế nào? Quốc tế này đối với cách mạng có ích gì? Cách mạng Việt Nam nên theo quốc tế này không? Cách tổ chức như thế nào?... Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại dành mục Hợp tác xã trong phần cuối của cuốn sách Đường cách mệnh? Có thể hình dung như một gợi ý về một xã hội trong đó con người hợp tác với nhau trong lao động là phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam chăng? </div><div style="text-align: justify;">Những vấn đề trên cho thấy sự thấu hiểu, nắm vững thực chất của Nguyễn Ái Quốc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và thực tiễn Việt Nam. Chỉ có trên cơ sở thấu hiểu, nắm chắc thực chất cả chủ thuyết và thực tiễn như vậy, Nguyễn Ái Quốc mới có thể biến những vấn đề hết sức phức tạp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (không chỉ sự phức tạp về nội dung mà cả trong sự trình bày) thành những vấn đề vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ và do đó mới chắc chắn đặt vấn đề Việt Nam nên theo cái gì và làm như thế nào để cách mạng thành công. Đây chính là bí quyết thắng lợi của Nguyễn Ái Quốc trong tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê-nin vào Việt Nam - một đất nước có những đặc trưng riêng của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến với đa số cư dân là nông dân thất học, mù chữ. </div><div style="text-align: justify;">3 - Chúng ta học được gì qua việc nghiên cứu hình thức và nội dung mà Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng trong sách Đường cách mệnh để vận dụng vào việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và việc xây dựng, tuyên truyền nghị quyết, đường lối, chủ trương của Đảng trong điều kiện hiện nay?.</div><div style="text-align: justify;">Một là, phải hiểu đầy đủ và nắm vững thực chất nội dung học thuyết, tư tưởng, chủ trương được tuyên truyền. Chỉ có trên cơ sở đó mới truyền bá chính xác, đúng đắn và hiệu quả nội dung của nó và tìm ra được những hình thức đáp ứng yêu cầu biến những vấn đề phức tạp thành vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ và chắc chắn được. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin được Nguyễn ái Quốc hóa chính là một biểu hiện nắm vững thực chất lý luận Mác - Lê-nin của Người và do đó đã đáp ứng yêu cầu đã đề ra cả về nội dung và hình thức thể hiện. Đây là vấn đề cốt lõi nhất.</div><div style="text-align: justify;">Hai là, nắm vững thực chất nội dung lý luận phải gắn với hiểu biết chính xác thực tiễn với sự vận động không ngừng của nó trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thực tiễn này không chỉ là hoàn cảnh lịch sử, mà bao gồm cả những đòi hỏi cấp thiết cũng như lâu dài cũng như trình độ của nhân dân, để từ đó lựa chọn và bắt đầu tiến hành với những nội dung căn bản nào của vấn đề định tuyên truyền cho phù hợp với thực tiễn của đất nước, đồng thời đáp ứng yêu cầu vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ và chắc chắn về nội dung. Đây là vấn đề vận dụng tư tưởng, lý luận một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của nước mình thể hiện trong nội dung tuyên truyền. Tư tưởng, lý luận có đi vào cuộc sống hay không lại phụ thuộc vào vấn đề này.</div><div style="text-align: justify;">Ba là, phương thức thể hiện phải tạo ra sự chủ động và phát huy khả năng tự nhận thức, tự lựa chọn và sáng tạo cho cả người tuyên truyền và người được tuyên truyền, không thụ động trước những quan điểm đã được minh chứng chủ quan và xác định sẵn về sự đúng đắn của nó. Đem lịch sử các nước làm gương cho chúng ta soi trong Đường cách mệnh mà Nguyễn Ái Quốc sử dụng chính là trên ý nghĩa đó. Điều này làm tăng thêm niềm tin khi đối tượng tự nhận thức về sự đúng đắn của lý luận thông qua thực chứng lịch sử. Lý luận có được thực hiện bằng hành động tự giác và được tiếp tục phát triển hay không là phụ thuộc vào phương thức truyền bá này. </div><div style="text-align: justify;">Nắm vững thực chất tư tưởng, lý luận, thực tiễn và với một phương pháp đúng để biến những luận giải phức tạp của tư tưởng, lý luận thành những vấn đề vắn tắt, dễ nhớ, dễ hiểu, chắc chắn là bí quyết thắng lợi của Hồ Chí Minh trong tuyên truyền cách mạng. </div><div style="text-align: justify;">Ngày nay, cho dù với phương tiện truyền thông luôn được ứng dụng các kĩ thuật hiện đại nhất vẫn phải coi quan điểm trên là phương châm của công tác tuyên truyền. Đây chính là nội dung và hoạt động chủ yếu của sự cạnh tranh toàn cầu trên lĩnh vực truyền thông hiện đại. Với tất cả các ý nghĩa trên, có thể nói giá trị về hình thức và nội dung của Đường cách mệnh trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải chỉ có ý nghĩa về phương diện lịch sử mà có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc với chúng ta ngày nay. <br />
</div><div style="text-align: justify;">--------------------------------------------------------------------------------</div><div style="text-align: justify;">[1], [2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t 2, tr 262</div><div style="text-align: justify;">[3], [4], [5] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 35, tr 39</div><div style="text-align: justify;">[6], [7] Hồ Chí Minh - tiểu sử: Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr 181, tr 180</div><div style="text-align: justify;">[8], [9] Hồ Chí Minh: Sđd, tr 261, tr 261 - 262.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: right;">PGS, TS <strong>Phạm Hồng Chương</strong></div><div style="text-align: right;"> Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-84463441038431770782010-10-08T02:14:00.000-07:002010-10-08T02:14:37.864-07:00NỀN GIÁO DỤC THEO TINH THẦN NHO GIÁO<div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgrk0fkbo4dcCBuoWPqWiC83wPB8UyXQJ6SJJ0Y78r2u6TKqLOvNsBwTeW3zUeB2Neqg1hNNGa_LiJU-ErfFQwex363Pjgfs0g4f7GFP6omouBbj55Tze0btWCr9l0_NHF8-Itp69dYFSQ/s1600/NHO.bmp" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgrk0fkbo4dcCBuoWPqWiC83wPB8UyXQJ6SJJ0Y78r2u6TKqLOvNsBwTeW3zUeB2Neqg1hNNGa_LiJU-ErfFQwex363Pjgfs0g4f7GFP6omouBbj55Tze0btWCr9l0_NHF8-Itp69dYFSQ/s1600/NHO.bmp" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Khổng Tử - ông tổ của Nho gia, sống và hoạt động ở thời Xuân thu (1) một thời đại lịch sử mà các nhà Nho sau này đã phê phán là thời “đời suy đạo hỏng”, “vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con” đạo lý cương thường đảo ngược, thiên hạ đại loạn. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu đã dựa vào những sự thực lịch sử không thể phản bác để chứng minh rằng đó là một thời kỳ có nhiều có biến chuyển lớn lao, ảnh hưởng mạnh mẽ tới mọi mặt hoạt động của xã hội Trung Hòa cổ đại. </div><div style="text-align: justify;">Nhìn chung, đó là thời kỳ mà hoa tộc (hạt nhân của Hán tộc sau này) đã hình thành do sự hỗn hợp nhiều chủng tộc khác nhau trên cơ sở dân cư miền trung nguyên (miền đất đai rộng lớn phì nhiêu nằm giữa phía nam Hoàng Hà và phía Bắc Trường Giang). Cương vực của Trung Hoa cổ đại đã ổn định sau các cuộc chiến tranh với nước ngoài và chiến tranh khiêm tính giữa các nước chư hầu; nông nghiệp, công thương nghiệp khá phát triển, văn hóa giáo dục vốn do quý tộc khống chế lũng đoạn đã dần dần truyền bá xuống các giai tầng khác trong xã hội và có đà phát triển mạnh mẽ. Quý tộc cũ (công thất) suy vi dần (do ăn chơi xa xỉ, do sát phạt lẫn nhau để tranh quyền đoạt lợi… ); Thế lực của quý tộc mới (nòng cốt là giai cấp địa chủ mới hưng khởi) ngày càng chiếm ưu thế); Tầng lớp tiểu nông bị phá sản hàng loạt, lâm vào cảnh đói khổ triền miên... Những biến đổi to lớn ấy thế tất phải phản ánh vào những hoạt động văn hóa tư tưởng. Nhiều nhà trí thức lớn đã xuất hiện, đề xuất nhiều phương án nhằm cải tạo và phát triển xã hội, hoặc chí ít cũng nhằm ổn định lại những mặt chủ yếu của cuộc sống trong thời đại đầy biến động này, dưới nhiều quan điểm triết học tư tưởng khác nhau. Nổi bật nhất có thể kể: Khổng tử đại biểu cho học phái Nho gia; Mặc Địch đại biểu cho Mặc gia; Lão tử, Trang tử đại biểu cho Đạo gia và hàng loạt nhà hoạt động chính trị mang tư tưởng pháp gia mà tiêu biểu hơn cả là Hàn Phi tử ở thời Chiến quốc.</div><div style="text-align: justify;">Nho gia chủ trương bảo vệ “công thất”, bảo tồn những giá trị, những thiết chế văn hóa cũ thời Tây Chu (khoảng thế kỷ 11 đến năm 771 TCN), ra sức tuyên truyền cho lễ nhạc, danh phận, tông pháp, hiếu đế nhân nghĩa, cương đạo, nhân chính v.v... mong muốn dùng những điều đó để giáo hóa nhân dân, để củng cố vương triều, để hạn chế bớt sự tham lam, tàn bạo, xa xỉ, lạm quyền, chuyên chế của giai cấp thống trị, nhằm ổn định cục diện xã hội chính trị đương thời. Mặc gia chủ trương thuyết kiêm ái, muốn quân bình tài sản, thực hành tiết kiệm, tôn trọng người hiền tài... Đạo gia chủ trương thuyết “vô vi”, thuận theo tự nhiên, lý tưởng hóa cuộc sống cổ ở nơi thôn dã... Pháp gia chủ trương đẩy mạnh sản xuất, xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh, coi trọng những vấn đề của cuộc sống trước mắt, ít chú ý tới các thánh chúa hiền vương thuở trước. Ngay cả những điều hiếu đễ nhân nghĩa... cũng không thu hút được sự quan tâm của họ.</div><div style="text-align: justify;">Thời bây giờ “vương thất nhà Chu” chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Ở các nước chư hầu “công thất” nói chung chỉ còn hư vị; thực quyền nằm cả trong tay các đại phu, các gia thần... Chính vì vậy, các chủ trương tôn Chu, ủng hộ công thất hạn chế quyền lực của đại phu, gia thần, chính danh phận, thực hành lễ giáo, đức trị v.v... do Khổng tử đề xuất hoàn toàn không phù hợp với yêu cầu và khẩu vị của những thế lực đương quyền. Ông đã từng đến nhiều nước chư hầu để tìm cách “thi hành đạo lớn” nhưng chẳng được nước nào tin dùng. Thất bại trên trường chính trị, ông lui về dồn hết tâm trí, sức lực việc chỉnh lý di sản văn hóa cổ và dạy học cho tới những năm tháng cuối cùng của cuộc đời. Chính trong lĩnh vực này Khổng tử đã đạt được những thành tựu rất to lớn, có giá trị lịch sử nổi bật, tạo ra được những hướng cực kỳ sâu sắc đối với đời sau.</div><div style="text-align: justify;">Các quan điểm về giáo dục cũng như thực tiễn hoạt động giáo dục của Khổng tử gắn bó chặt chẽ với tư tưởng triết học và hệ thống quan điểm chính trị xã hội của ông. Nói cách khác, sau khi bị bế tắc trên đường hoạt động chính trị, Khổng tử đã gửi gắm hoài bão vào việc đào tạo một tầng lớp nhân tài theo khuôn mẫu, lý tưởng của mình. Khả dĩ thay mình thực hành “đạo lớn” trong thiên hạ. Nghe nói, ông có tới 3000 học trò, trong số đó có 72 người thành đạt nổi (thất thập nhị hiền).</div><div style="text-align: justify;">Theo Luận ngữ (sách ghi lời nói việc làm của Khổng tử và của một số môn đồ) thì nội dung giảng dạy của Khổng tử bao gồm 4 phân khoa: đức hạnh, ngôn ngữ, chính trị, văn học. Tuy có sự phân chia như vậy nhưng mục tiêu chủ yếu vẫn là bồi dưỡng những người có đức nhân, người quân tử có đủ phẩm cách và năng lực thi hành “đạo lớn” theo tôn chỉ của Nho gia. Nhìn tổng quát, nền giáo dục theo tư tưởng Nho gia ở giai đoạn sơ khởi, do Khổng tử đích thân tổ chức và tiến hành, có một số điểm cần đặc biệt lưu ý như sau:</div><div style="text-align: justify;">1.Thích ứng với xu thế “văn hóa học thuật chuyển xuống dưới” ở thời Xuân Thu, hoạt động giáo dục của Khổng tử trên chừng mực nhất định có mang tính chất phổ cập, bình dân, chống độc quyền văn hóa của giai cấp quý tộc. Ông từng nói: “Trong việc dạy dỗ, ta không phân biệt loại người này, loại người kia” (Hữu giáo vô loại) – thiên Vệ Linh Công – Sách Luận ngữ; “Từ người chỉ có một bó nem mang đến (để làm lễ ra mắt xin học), trở lên, ta chưa từng (vì lễ vật đơn sơ) mà từ chối không dạy “Tự hành thúc tu dưỡng thượng, ngô vị thường vô hối yêu”- thiên Thuật nhi - sđd)… Chủ trương này được thực hiện khá rộng rãi và nhất quán ở các đời sau, kết hợp với chế độ thi cử, thực tế đã mở đường tiến thân cho nhiều người có tài năng xuất thân từ bình dân (đó chính là hiện tượng “bố ý khanh tướng” - các khanh tướng xuất thân từ tầng lớp bình dân, áo vải).</div><div style="text-align: justify;">2. Đề cao việc học tập - Khổng tử quan niệm sự hiểu biết không phải là sinh ra đã có sẵn mà phải được tích lũy qua quá trình học tập, rèn luyện khá công phu. Ngay các đức tính như nhân, trí, tín, trực, dũng, cương cũng cần phải học tập rèn luyện thì mới có thể phát triển đúng hướng, ứng dụng hoàn hảo. Ông chủ trương muốn ra hành đạo giúp đời cần phải học thật giỏi (“Học ưu tắc sĩ”). Sách Luận ngữ còn ghi lại một đoạn đối đáp giữa Khổng tử và học trò là Tử Cao như sau: “Tử Lộ muốn đưa Tử Cao (một người chưa được học hành đến nơi đến chốn) ra làm chức huyện trưởng huyện Phí. Khổng tử nghe tin đó bèn nói: “Như vậy là làm hại con nhà người ta!” Tử Lộ nói: “Nơi đó có dân, có đất đai, có thóc lúa (cứ đứng ra mà cai trị rồi sẽ quen việc) hà tất phải học tập trên sách vở rồi mới được coi là có học!” Khổng tử bèn mắng luôn: “Vì vậy ta mới ghét cái trò nguy biện khéo nói của nhà ngươi” (xem Thiên Tiên Tiến - Sđd). Truyền thống “hiếu học” của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng Nho giáo có lẽ cũng bắt nguồn từ đây.</div><div style="text-align: justify;">3. Xác định rõ mục đích của việc học tập, đó là: hành đạo, giúp vua, giúp nước. Ông từng nói: “Học thuộc lòng ba trăm bài thơ trong Kinh Thi, giao cho việc chính sự, không làm nổi; sai đi sứ ở bốn phương, không biết đối đáp ra sao. Như vậy thì tuy học nhiều thật đấy nhưng nào có ích lợi gì đâu“ (xem Thiên Tử Lộ - Sđd)... Sau khi đã khẳng định giá trị của tập Kinh Thi: “Làm người mà không học thơ Chu Man, Thiệu Man thì chẳng khác gì đứng quay mặt vào tường (chẳng nhìn thấy gì, mà cũng chẳng nhúc nhích tiến tới được một bước)” và “Học Kinh Thi có thể phát huy khả năng liên tưởng, có thể nâng cao năng lực quan sát, có thể rèn luyện tính hợp quần, có thể học được cách châm biếm phúng thích”, Khổng tử đã nhấn mạnh “gần thì có thể vận dụng những đạo lý trong đó để thờ cha, xa thì có thể vận dụng những đạo lý trong đó để thờ vua…” (Xem Thiên Dương Hóa - Sđd). Chủ trương này sẽ được tiếp tục triển khai thành các mệnh đề “trí quân trạch dân”, “Kinh bang tế thế” trong tư tưởng các nhà Nho lớp sau.</div><div style="text-align: justify;">4. Kết hợp chặt chẽ việc truyền thụ tri thức văn hóa vào việc rèn luyện phẩm chất đạo đức. Ở mức độ nhất định, có thể nói Khổng tử chủ trương coi việc rèn luyện đạo đức là ưu tiên số một. Ông từng căn dặn các môn đồ nhỏ tuổi: “Này các trò, ở trong nhà thì ăn ở hiếu thuận với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì kính trọng nhường nhịn các bậc huynh trưởng; nên ít lời và đã nói thì phải thành thực, nên thân yêu rộng khắp mọi người nhưng nên gắn đủ những người có đức nhân. Thực hiện được đầy đủ những việc đó rồi, nếu còn dư sức lực thì sẽ dùng để trau dồi tri thức văn hóa” (xem Thiên Dương Hóa - Sđd).</div><div style="text-align: justify;">5. Theo quan niệm của Khổng tử, đỉnh cao mà việc rèn luyện nhân cách cần đạt tới là con người “toàn đức” (bao gồm cả ba phẩm chất nhân, trí, dũng, con người coi việc thực hiện “đức nhân” là lý tưởng tối cao, có thể hy sinh thân mình để hoàn thành điều nhân (sát thân thành nhân). Rất coi trọng vai trò của ý chí lý tưởng, ông từng nói: “Có thể bắt sống tướng soái của ba quân nhưng khó lòng cưỡng ép một người bình thường rời bỏ ý chí” (xem Thiên Tử Hãn - Sđd). Chính những chủ trương quan niệm trên đây đã góp phần tạo nên cái sau này được gọi là “khí tiết sĩ phu”, góp phần tạo nên những nhân cách cứng cỏi: “Phú quý không thể làm sa đọa đam mê, nghèo khổ không thể lay chuyển được ý chí, uy vũ không thể khuất phục nổi” (Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất).</div><div style="text-align: justify;">Trên đây là những ưu điểm chủ yếu của nền gáo dục theo tinh thần Khổng giáo, ở giai đoạn mở đầu, được chắt lọc theo hướng “gạn đục khơi trọng”. Tất nhiên, với nền giáo dục ấy, còn xa mới có thể vươn tới hình mẫu một con người phát triển toàn diện. Khổng tử coi trọng việc học nhưng lại không quan tâm đến nền sản xuất xã hội hoặc ứng dụng cái học vào lãnh vực sản xuất vật chất (bằng lao động chân tay hoặc lao động trí óc). Một học trò của Khổng tử là Phàn Trí xin học về kỹ thuật cày cấy. Ông nói: “Kiến thức của ta về mặt này không bằng một lão nông”. Lại xin học nghề làm vườn. ông nói: “Ta không bằng một lão làm vườn”. Tiếp đó, ông chê Phàn Trì là tiểu nhân. Ông quan niệm rằng, cứ học giỏi Thi Thư Lễ Nhạc... “rèn luyện đạo đức cho tốt, cai trị dân cho giỏi thì lo gì không có thóc lúa mà ăn, cần gì phải học cấy cày trồng trọt” (xem Thiên Tử Lộ - sđd). Có lẽ đây là căn nguyên đã khiến cho trong hàng ngũ các nho sĩ đầu óc thực nghiệp kém phát triể. Khổng Tử chủ trương “Thuật nhi bất tác” (chỉ trình bày giới thiệu lại nền văn hóa cũ (của Tây Chu) chứ không sáng tạo thêm cái gì mới), quá đề cao thuyết “ôn cố tri tân” (ôn cũ biết mới) một cách phiến diện một chiều nên cũng đã góp phần tạo nên sự trì trệ, bảo thủ trong lĩnh vực hoạt động tinh thần. Và, cố nhiên, ngay cả với những đỉnh cao của giá trị nhân cách, với những biểu hiện tập trung nhất, tỉnh táo hợp lý nhất của “khí tiết kẻ sĩ”, cũng còn phải hội tụ được nhiều giá trị khác nữa (do hoàn cảnh, điều kiện chủ quan và khách quan cung ứng) mới có thể nói đến những phẩm chất nhân cách kiểu mới mà chúng ta thường quan niệm như: khai phóng, tự do, làm chủ bản thân, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân mình...</div><div style="text-align: justify;"><br />
Xét tới cùng, đó cũng là một tất yếu lịch sử. Ở đây, khi đánh giá công lao của Khổng tử trong sự nghiệp giáo dục ở thế giới cổ đại, chúng ta cần phải nhớ tới lời căn dặn của V.I.Lênin: “Khi xét công lao của các vĩ nhân, người ta không căn cứ vào chỗ họ không cống hiến được gì cho nhu cầu của thời đại chúng ta, mà căn cứ vào chỗ họ đã cống hiến được những gì so với các bậc tiền bối của họ”. Nhìn vào cuộc sống văn hóa tinh thần của Trung Hoa cổ đại trước và sau thời kỳ hoạt động của Khổng tử, chúng ta thấy rõ sự đóng góp của ông quả thực là lớn lao, đặc biệt là về mặt đề cao tinh thần nhân bản.</div><div style="text-align: justify;">Nho giáo vào Việt Nam khá sớm, cùng với sự du nhập ngôn ngữ văn tự Hán bám sát theo sau các đoàn quân viễn chinh. Chính vì vậy, trong khoảng 10 thế kỷ đầu Công nguyên, không thể nói rằng đã có một nền Nho học ở Việt Nam. Sự kiện học thuật này sẽ xuất hiện ở những thế kỷ tiếp theo, đặc biệt là sau khi nền độc lập tự chủ của quốc gia phong kiến Việt Nam đã được củng cố và phát triển.</div><div style="text-align: justify;">Có thể hình dung về đại thể quá trình tiếp nhận ngôn ngữ văn tự Hán kèm theo đó là nền Hán học (Nho học) ở Việt Nam qua hai giai đoạn lớn sau đây:</div><div style="text-align: justify;">Giai đoạn l: (khoảng trước sau thế kỷ I trước CN cho tới thế kỷ 10 sau CN). Cùng với các đoàn quân xâm lược và lực lượng đô hộ của phong kiến phương Bắc, ngôn ngữ văn tự Hán (kèm theo đó là văn hóa Hán, Nho học...) cũng đã ồ ạt tràn vào Việt Nam. Các lực lượng chiếm đóng cũng đã có nhiều cố gắng trong việc phổ biến thứ ngôn ngữ văn tự và nền văn hóa học thuật này nhằm nô dịch và đồng hóa nhân dân ta. Nhưng, sau gần một ngàn năm nỗ lực, kết quả thu được thực quá ít ỏi. Chỉ có vài người được coi là tinh thông Hán học như Lý Cầm, Lý Tiến, Khương Công Phụ..., lại là những người sang “chính quốc” du học, và phần lớn đã ở lại làm quan bên “chính quốc”. Tên tuổi của họ - nói chi đến sự nghiệp văn chương sớm bị chìm trong quên lãng. Duy chỉ có Tinh Thiều, cũng tinh thông Hán học, nhưng đã từ bỏ con đường hợp tác với lực lượng đô hộ, tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế, được cử làm tướng văn, đứng đầu ban văn của triều đình nước Vạn Xuân, là còn thấy lưu danh trong sử sách.</div><div style="text-align: justify;">Giai đoạn 2: bắt đầu khoảng thế kỷ 10. Trong hoàn cảnh đã giành được nền độc lập tự chủ, tiến lên xây dựng quốc gia phong kiến hùng mạnh, nền Hán học ở nước ta đã có những bước phát triển mau lẹ. Nhìn chung, việc tìm hiểu nghiên cứu và vận dụng những tri thức Hán học (trong đó những kiến giải về Nho giáo đóng vai trò chủ chốt) ở nước ta trong giai đoạn này đã có những nét nổi bật, bộc lộ rõ xu hướng học tập tinh hoa văn hóa bên ngoài để xây dựng nền học thuật nước nhà.</div><div style="text-align: justify;">Có thể nói, đây cũng là một trường tranh đấu mà tổ tiên ta đã dũng cảm kiên trì với tài trí thông minh tuyệt vời để một mặt thì vươn lên chiếm lĩnh lấy đỉnh cao của văn minh đương thời, để nước ta “không kém gì Hoa Hạ” (“bất tôn ư Hoa Hạ” - Hoa Hạ được dùng để trỏ Trung Quốc) và mặt khác thì vẫn giữ vững và phát huy được bản sắc dân tộc, do đó đã có được những đóng góp nhất định vào kho tàng văn hóa chung của khu vực, của nhân loại. Đành rằng, trong một thời gian kể cũng khá dài, giai cấp phong kiến và tầng lớp nho sĩ Việt Nam đã quá sính dùng chữ Hán, đã quá mê tín “Tử Viết, Thi Vân” (Khổng tử đã nói, Kinh Thi có câu… ) Nhưng xét cho kỹ, tất cả những yếu tố ngôn ngữ - văn hóa từ ngoài đưa tới đó, muốn có một sinh mệnh thực sự trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc thì đều phải trải qua nhiều lần thoát xác cải biên, Việt hóa sâu sắc. Âm Hán Việt - cách đọc chữ Hán của người Việt Nam; từ Hán Việt với những đổi thay nhất định về kết cấu ngữ nghĩa, về phạm vi sử dụng, về sắc thái biểu cảm; cả một nền văn chương chữ Hán đồ sộ của người việt Nam; chữ Hiếu, quan niệm về Nhân Nghĩa của Nguyễn Trãi, cái nhìn khoáng đạt về cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm; chữ Tài, chữ Tình trong tâm tưởng của Nguyễn Du, lẽ cương thường trong suy tư và hành động của các chiến sĩ Cần Vương cuối thế kỷ trước... Tất cả đều góp phần tô đậm màu sắc Việt Nam trong việc tiếp nhận và ứng dụng hệ thống ngôn ngữ - tư tưởng - văn hóa ngoại lai này. Trong quá khứ lịch sử, người Việt Nam đã dành ra khá nhiều năm tháng để nghiên cứu học tập và ứng dụng nền văn chương học thuật Trung Quốc mà nòng cốt là tư tưởng Khổng Mạnh. Qua các lớp học của thầy đồ nơi thôn xóm ngay từ thuở tóc còn để trái đào, trẻ con Việt Nam ngày xưa đã làm quen với những câu chữ “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Nhân chi sơ tính bản thiện”, “Thiên tử trọng hiền tài...” (học lễ trước, học các tri thức văn hóa khác sau; con người ta ngay từ đầu tính vốn thiện, Thiên tử coi trọng người hiền tài, giỏi giang...). Lớn lên, qua Tứ thư (Đại Học, Trung dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử) Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu), tầng lớp thanh niên trí thức Việt Nam lại đi sâu nghiên cứu những lý thuyết về Vương đạo, nhân chính, về trung hiếu tiết nghĩa, những mong muốn đem các số học ra ứng dụng để “cứu khốn phò nguy” để “kinh bang tế thế”... </div><div style="text-align: justify;">Nền giáo dục học thuật kéo dài qua hàng trăm thế hệ ấy đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn hóa, trong tâm thế ứng xử của người Việt Nam. Cách đây không lâu, người phụ nữ nông thôn bình thường nơi thôn xóm, chẳng cần phải qua cửa Khổng sân Trình, cũng dễ dàng phân biệt được về mặt chữ nghĩa sự khác nhau giữa hai chữ tiểu trong “tích tiểu thành đại” và “tiểu nhân”, một bên nói về lượng, một bên nói về chất. Kẻ tiểu nhân là kẻ thiếu nhân cách, kém đạo đức, mặc dù hắn có thể to con lớn xác. Và như vậy, hầu như là tự nhiên, họ đã tiếp cận được và lý giải được ý nghĩa nội hàm của những khái niệm khá cơ bản của đạo lý cổ truyền phương Đông Nho giáo. Điều này phần nào đã có thể nói lên được sự xâm nhập khá sâu của nền giáo dục theo tinh thần Khổng giáo vào xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, không cần kể đến những thiết chế văn hóa rộng lớn có tính chất bao trùm ngay trong nhiều tập quán sinh hoạt đời thường, hoặc như cách đặt tên người, tên đất (Lý Nhân, Vụ Bản, Dị Nâu, Bần Yên Nhân, Hành Thiện v.v..), chẳng hạn tất cả đều cho thấy dấu ấn của sự xâm nhập đó. Đây là một thực tế lịch sử buộc chúng ta phải đầu tư nhiều công sức, trí tuệ để tiếp cận, minh giải và xử lý nó một cách khoa học, nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới trên đất nước ta trong giai đoạn hiện tại. Công việc này đòi hỏi những công trình nghiên cứu sâu rộng, trên cơ sở vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa bộ môn. Dựa trên quan niệm quá khứ hiện đại - tương lai là một dòng liên tục, nhiều vấn đề của quá khứ có thể được coi như những “gợi ý lịch sử”, có ý nghĩa thực tiễn nhất định đối với cuộc sống hôm nay, qua những điều đã trình bày một cách giản lược ở trên về nền giáo dục theo tinh thần Nho giáo, chúng tôi muốn đề xuất một số điều nhận xét chung có thể coi như là cơ sở xuất phát, để tiếp tục đi sâu khảo sát, nghiên cứu, tìm hiểu Khổng giáo nói chung và nền giáo dục theo tinh thần Khổng giáo nói riêng trong quá khứ lịch sử ở Việt Nam.</div><div style="text-align: justify;">Trước hết, cần thấy rõ tinh thần Khổng giáo đã thấm vào mọi ngõ ngách của đời sống người dân Việt Nam trong quá khứ, đã gây những ảnh hưởng rất sâu rộng. Hiện nay, những ảnh hưởng này vẫn tồn tại ở những mức độ khác nhau trong mọi mặt của cuộc sống, nhiều khi quá sâu sắc, tế vị, phức tạp, dưới muôn hình vạn trạng, không nên quan niệm một cách đơn giản rằng ảnh hưởng của Khổng giáo ở Việt Nam là không đáng kể chỉ tác động đến tầng lớp trên, tầng lớp có học v.v… Những di sản của Khổng giáo (xấu cũng như tốt). Vấn đề đặt ra là cần phải tìm cách nhận diện chúng và xử lý chúng một cách khoa học. Theo chúng tôi suy nghĩ, cần phải nhìn nhận những di sản này một cách “thực sự cầu thị”; cần phải nhìn nhận những di sản này một cách “thực sự cầu thị”; cần phải nghiên cứu để nhận thức chúng một cách lịch sử và biện chứng. Những yếu tố văn hóa Khổng giáo sở dĩ có thể sống lâu dài ở Việt Nam trước hết có lẽ là do bản thân chúng có mang theo những giá trị có tính phổ quát toàn nhân loại. Những giá trị phổ quát này đã tích hợp các giá trị văn hóa bản địa tương ứng, trên chừng mực nào đó đã được cấu trúc lại cho phù hợp nội tâm thế Việt Nam. Hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế -xã hội, ngay cả môi cảnh thiên nhiên, vị trí địa lý nữa v.v… cũng đã góp phần tạo thêm sức sống cho những yếu tố văn hóa ngoại nhập này. Có lẽ đó là những điều cần nghiên cứu tìm hiểu kỹ kỹ lưỡng để tránh thái độ nôn nóng, đơn giản… Khi muốn xóa bỏ ảnh hưởng này nọ được quan niệm là gắn bó với tinh thần Khổng giáo.</div><div style="text-align: justify;">Cuối cùng, với cái nhìn rộng mở, trong hoàn cảnh ngày nay nhiều vấn đề của Phương Đông, nhiều giá trị truyền thông của Phương Đông đã thu hút sự quan tâm tìm hiểu của toàn thế giới, phải chăng đã có thể đề xuất việc nghiên cứu một cách thấu đáo để tiến tới xác lập một phương hướng đúng đắn và nhưng phương pháp khoa học tương ứng nhằm xử lý một cách tối ưu những di sản, những truyền thống văn hóa Khổng giáo trong cuộc sóng hiện tại. Thí dụ như Trung Hiếu là vấn đề tồn tại từ ngàn xưa. Trung Hiếu không phải là của riêng của dân tộc Trung Hoa, của riêng của Nho giáo. Có lẽ tổ tiên ta đã mượn hai danh xưng này để phát triển những tình cảm đã gắn bó với cộng đồng người Việt từ thuở bước vào cuộc sống có tổ chức. Qua các thời gian lịch sử, nội dung của Trung Hiếu có những phần được bổ sung, hiệu chỉnh cho ngày càng hoàn thiện hơn, mang tính chất con người hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất Trung với nước, Hiếu với dân..., có thể coi đây là mẫu mực của việc cải biên, nâng cao, thậm chí đổi mới nội dung của những khái niệm gắn bó với những bậc thang giá trị cũ, đem lại cho chúng sức sống mới trong thời đại mới.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-40437141540983246052010-10-08T02:10:00.000-07:002010-10-08T02:10:01.957-07:00LÃO TỬ<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjbob3SVzMSWTeOequGpkxkGD-uA5eLoqiWU9YyDigCPCGAKK-M9xVwoibBHSiSX3xfJux_VY0F9pQWD6zw2q5P3QhBaui6Km_Seis8RJNv-BrtrlqHH0TiriAItMRIlbteOYEHwxuP-Tc/s1600/a.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjbob3SVzMSWTeOequGpkxkGD-uA5eLoqiWU9YyDigCPCGAKK-M9xVwoibBHSiSX3xfJux_VY0F9pQWD6zw2q5P3QhBaui6Km_Seis8RJNv-BrtrlqHH0TiriAItMRIlbteOYEHwxuP-Tc/s1600/a.jpg" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
570 trước Công Nguyên </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI <br />
Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, người Khổ huyện, nước Sở, sinh vào đầu năm Chu Linh Vương, khoảng 570 tr. CN tuy cùng thời với Khổng Tử, nhưng lớn hơn mười chín tuổi. Một việc mà người đời sau hay nhắc tới, là có lần Khổng Tử thỉnh giáo cùng Lão Tử. Cứ theo sách cổ ghi lại, thì nội dung cuộc hội đàm đó như sau (dịch theo ý chính cổ văn Hán): <br />
Khổng Tử thưa: "Khâu tôi nghiên soạn Lục kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và Xuân Thu. Tự coi đó là văn hiến lâu đời, biết đâu lại là đồ cũ. Đến với những bảy mươi hai vì vua, tham luận về đạo lý của tiên vương, giới bày về thành quả của đương triều, song chẳng được vị nào áp dụng cả. Đáng tiếc thay, sao người ta khó khuyên bảo thế, đạo lý khó sáng tỏ thế” <br />
Lão Tử đáp: "(Bởi vì) những gì mà Ngài đưa ra trình bày, xương cốt của những người đó đã mục nát lâu rồi, chỉ còn lời nói ghi lại thôi. Cũng may là Ngài chưa gặp được vị nào gọi là vua tế thế. Lục kinh của Ngài đều là những vết cũ của tiên vương... Vết là do dấu chân đã qua mà để lại, nhưng vết là vết, chứ đâu phải bước chân đi? Nếu Nhân Nghĩa là ngôi nhà cổ của tiên vương, thì ta chỉ có thể trọ tạm một đêm thôi, chớ nên ở lâu... Nếu cứ để cho Nhân Nghĩa ăn sâu vào lòng, là làm rối thêm lòng, tai hại lớn đấy . Tôi có nghe, người ta đem vật quý giấu dưới chân tường đổ nát, quân tử có đức cao, thì dáng trông như đần độn vậy. Thôi, hãy bỏ cái khí phách kiêu hãnh và lòng ước muốn của Ngài đi. Phong cao chí lớn, đều vô bồ cho bản thân. Lời tôi khuyến cáo Ngài, chỉ có bấy nhiêu đó thôi". <br />
- Khi tiễn chân Khổng Tử ra về, Lão Tử bảo thêm rằng: "Tôi có nghe, kẻ giầu sang lấy của tặng khách, người nhân đức mượn lời tiễn đưa. Tôi chẳng sang giầu, xin trộm tiếng nhân đức mà tặng cho Ngài một lời: Kẻ tài khôn, giữ kỹ trong lòng (những gì mình biết) cho đến lúc gần đến xa trời, mới là người có nghĩa. Nếu mang ra bàn tán thì nguy đến bản thân, bởi cái đó thường làm cho người ta oán ghét mình. Cho nên, ở vào địa vị con em, chớ tỏ ra mình hiểu biết hơn (Phụ huynh); ở vào địa vị thần dân, chớ tỏ ra mình hiểu biết hơn (vua quan)". <br />
Lão Tử từng làm chức Thủ tạng thất (giữ kho") nhà Chu, sống ở đất Chu khá lâu. Sau đó, nhận thấy nhà Chu đã mất hết thật quyền thống lĩnh chư hầu, chẳng chóng thì chầy, rồi sẽ bại vong, nên quyết ý từ quan về quy ẩn, vui sống với cảnh sơn lâm, tiêu diêu thoải mái, cách biệt bụi đời(khi Lão Tử vừa đến cửa ải, người giữ cửa là Doãn Hỷ bảo: "Nghe đâu Ngài sẽ về ẩn dật, vậy tôi xin mạn phép ép Ngài viết sách để lại cho tôi". Để được sớm ra cửa quan, Lão Tử đành để lại cuốn sách, trong đó chỉ viết có năm ngàn lời, tức là cuốn Đạo Đức kinh, cũng gọi là "Lão Tử”(Có người cho rằng, cuốn Đạo Đức kinh thật ra là do các tín đồ Đạo giáo đời sau, họp sức soạn chung theo tư tưởng và lời dạy của Lão Tử). Rồi từ đó biệt tăm biệt tích luôn. <br />
Bình sinh của Lão Tử, đến nay vẫn còn là một nghi vấn lớn, kể cả sách Sừ ký cũng chép không rõ ràng, bởi khi viết đến truyện Lão Tử, Tư Mã Thiên toàn dùng lời văn phất phưởng, như câu "Dĩ tự ẩn vô danh vi vu”. (Lấy sự mai”danh ẩn dật làm chánh), và cồ nhiều đoạn lại bỏ lửng. Để thấu rõ thêm phần nào chân tướng của một nhân vật quan trọng nầy, trong lịch sử văn hóa Trung Hoa, xưa nay đã làm mất biết bao tâm lực và thì giờ của nhiều vị học giả, cố gắng tìm tòi khảo cứu, nhưng mãi cho đến bây giờ, vẫn chỉ được có một câu kết luận chung là : Trừ phi có thêm sử liệu mới, bằng không thì nhân vật thần bí này vẫn còn là một khúc mắc vĩnh viễn, chẳng ai tháo gỡ nổi. Tục truyền Lão Tử thọ đến 160 tuổi, thậm chí trên 200 tuổi. Theo lời giải thích trong sách Sử Ký, đó là nhờ "Dĩ kỳ tu đạo nhi dưỡng thọ". Những truyền thuyết đó đúng hay sai, tưởng chẳng liên quan gì cho lắm đến việc tìm hiểu tư tưởng, triết lý của Lão Tử. Sớ dĩ Lão Tử trở thành một nhân vật kỳ bí, sống mãi trong tâm hồn của người Trung Quốc, nhất là trong tầng lớp phi trí thức, phần lớn là do những truyền thuyết ảo huyền đó. Những truyền thuyết về cuộc đời của Lão Tử, điều nào thật, điều nào hư, chẳng ai nắm vững được. Vả lại Lão Tử là một "ẩn giả", nếu người ta biết rõ tận tường về đời tư của một “ẩn giả", thì đó mới là điều quái lạ. </div><div style="text-align: justify;">2. Chủ Thuyết Đạo Học</div><div style="text-align: justify;"> Tư tưởng của Lão Tử được biểu lộ qua cuốn Đạo Đức Kinh, vỏn vẹn chỉ có năm ngàn chữ, thế mà đã gây ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội Trung Hoa. Những trước tác chuyên giải nghĩa cho Đạo Đức Kinh, đến nay đã có trên 600 cuốn. Ở nước ngoài, chỉ riêng bản dịch Đạo Đức Kinh bằng tiếng Anh cũng đã nhiều đến 44 bản. Tựu trung, Đạo là ý niệm cơ bản nhất và quan trọng nhất trong cuốn Đạo Đức Kinh. Do đó, người ta gọi học thuyết của Lão Tử là Đạo học. <br />
Nguyên chữ "Đạo" đã chứa rất nhiều hàm nghĩa, riêng trong chương 11 của cuốn "Trung Quốc triết học nguyên luận" của Giáo sư Đường Quân Nghị, cũng đã quy nạp đến những sáu điểm chính: <br />
1/- Đạo thể hư vô. <br />
2/- Đạo thể siêu hình. <br />
3/- Đạo của hình tượng. <br />
4/- Đạo của đồng đức. <br />
5/- Đạo trong việc tu luyện đức tính và nếp sống. <br />
6/- Đạo trong trạng thái sự vật cụ thể và cảnh giới tâm linh, nhân cách của con người. <br />
Nhưng ngay câu mở đầu của Đạo Đức kình lại viết rằng: "Đạo khả đạo, phi trường đạo". (Đạo mà có thể cắt nghĩa được, thì chẳng là Đạo vĩnh thường). Vậy Đạo của Lão Tử như thế nào? Chúng ta có thể tìm hiểu Đạo đó qua tư tưởng và hành vi của Lão Tử. Bởi chán ghét thế cuộc nhiễu nhương, nhân sự chỉ đua đòi lợi lộc, Lão Tử chủ trương chính trị "vô vi”, mặc cho mọi việc thuận theo quy luật tự nhiên. Người cho rằng, sở dĩ thần dân khó trị là bởi cấp lãnh đạo "Hữu vi" (cố làm cái gì đó), nếu họ "vô vi" (chẳng làm gì cả), là dân "tự hóa" (tự giải quyết hết mọi sự việc) Lão Tử giải thích thêm rằng, khi ta hiếu tĩnh là dân tự chánh; ta vô sự là dân tự phú. Thậm chí còn chủ trương "Tuyệt Thánh khí tri" (Đoạn tuyệt với Thánh Hiền, loại bỏ trí thức) và "Tuyệt Nhân khí nghĩa" (Đoạn -tuyệt với cái gọi là Nhân, loại bỏ những gì gọi là Nghĩa) nữa, cứ để cho tất cả trở về với bản tánh chất phác, chân thật thôi. Xem lại lời đối thoại trên, giữa Lão Tử với Khổng Tử, chúng ta thấy tư tưởng và phong cách của Lão Tử khác hẳn với nhà Nho học, bởi tư tưởng đó có khuynh hướng "phản nhân văn", thiên về triết lý siêu hình, nên Lão Tử được coi là một triết gia rất lý trí và bình thản. <br />
Nguyên lý siêu hình của Lão Tử, là ở câu mở đầu của Đạo Đức kinh như đã trích lục trên đây. Lão Tử cho ràng "Thường đạo" mới đúng với cái tính chất của Đạo mà Người định nói, đó là Đạo định thường, không thay đổi. Lão Tử giải thích Đạo đó là: "Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất ta kỳ đanh, tự chi viết Đạo". Nghĩa là: có cái gì đó hỗn hợp thành hình, được sinh ra trước khi có trời đất. Nó tĩnh và thưa, biệt lập mà chẳng thay đổi, vận chuyển không ngừng, có thể nói đó là cái gốc của thiên hạ. Ta chẳng rõ tên, đặt đó là Đạo. Có nhiều học giả giải thích rằng, câu "tiên thiên địa sinh" là nói lên thời gian tồn tại của Đạo, đã có trước khi trời đất thành hình; "độc lập nhi bất cải" là nói lên tính cách biệt lập của Đạo, trong trạng thái vừa tĩnh vừa thưa; "chu hành nhi bất đãi" là nói lên tính cách phổ biến khắp nơi trong không gian của Đạo; riêng chữ "Mẫu” tức là cội”nguồn. Dù nói Đạo tuy chẳng là sự vật cụ thể hữu hình, nhưng trong tất cả mọi sự vật cụ thể đều có Đạo, bởi Đạo là căn nguyên của thiên địa Vạn vật. <br />
Mặt khác, Lão Tử dùng Đạo để giải thích về nguyên lý của vũ trụ rằng: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Nghĩa là đầu tiên do Đạo hóa ra "Nhất" (Một), rồi "Nhị" (Hai), "Tam" (Ba). Vậy Nhất có nghĩa là gì? và Nhị, Tam được giải nghĩa ra sao? Xưa nay có nhiều ý kiến khác nhau. Thậm chí có người cho rằng, "Nhất, Nhị, Tam" đó, gần như đồng nghĩa với quy luật "Chánh, phản, hợp" trong Biện chứng pháp của Hégel (1770 - 1831), bởi chương 40 của Đạo Đức kinh viết rằng: "Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu (có), hữu sinh ư vô (không)". Vậy Nhất là Không, Nhị là Có, Tam là tổng hợp lại có với không, để nói lên quá trình sinh thành của vũ trụ. Lối giải thích như vậy, có đúng với sự thật hay không, là vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học. Riêng với nhà triết học, nhất là nhà triết học thời cổ, họ chẳng màng xét tới mà chỉ nghĩ rằng, phải có một lối giải thích nào cho trật tự vạn tượng bao la trong vũ trụ, cùng với quá trình sinh thành của vạn vật Trách nhiệm của triết gia chỉ thế thôi, đó là vũ trụ quan của Lão Tử, tuy quá đơn giản, nhưng rất khách quan và "vô lình", gần gũi với tinh thần khoa học, trái với vũ trụ quan "hữu hình", mà đời sau được đa số người Trung Quốc chấp nhận, theo quan điểm Nho học. Nếu chúng ta có hỏi thêm, tại sao Một có thể sinh ra Hai, và Hai sinh ra Ba, thì Lão Tử bảo rằng: "Phản giả Đạo chi động". (Sức tương phản, là nguyên động lực của Đạo) và rằng: "Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô". (vạn vật trong thiên hạ được sinh ra từ chỗ Có. mà Có thì lại sinh ra từ chỗ không). Theo lời giải thích đó thì cần phải có thành phần tương phản. làm cho Đạo có được "nguyên động lực để tác khởi. Sỡ dĩ bảo "Có” sinh ra từ chỗ “Không” là bởi "Có" với “Không” vốn dĩ tương phản với nhau. <br />
Nói chung, tư tưởng của Lão Từ gồm có những đặc điểm sau đây: <br />
1/- Chống xã hội đương thời. Theo nhận xét của các nhà xã hội học, thời Xuân Thu Chiến quốc là lúc Trung Quốc bước vào giai đoạn xã hội biến thiên trọng đại. Khi một con người cảm thấy khó thích ứng với cuộc diện thay đổi trọng đại đó, họ sẽ phản ứng ra sao? Phương thức của nhà Nho, đứng đầu là Khổng Tử, gồm cả Mạnh Tử sau này, thì một mặt mong muốn trở lại với quy phạm hành vi nguyên thủy, như duy trì quy tắc lôn pháp dưới chế độ phong kiến nhà Chu; đồng thời mặt khác,sáng tạo nấc thang giá trị mới. Mong được xã hội công nhận, như cổ súy, đề cao đức tính Nhân Ái luân lý Trung Hiếu. Còn phương thức của Đạo gia, đứng đầu là Lão Tử, gồm cả Trang Tử sau này, thì bài bác, chống phá trật tự xã hội hiện hữu bằng hành vi tích cực, hoặc tự đặt mình ra ngoài vòng xã hội đó, bằng hành vi tiêu cực, như đi ẩn náu, mai danh lánh nạn chẳng hạn. Xuyên qua lời nói và trước tác (như Đạo Đức Kinh), người ta thấy Lão Tử luôn luôn giữ thái độ đả kích tập tục và chế độ xã hội đương thời, khiến cho tư tưởng và hành vi của Người, nhất nhất đều trái ngược với tình trạng thực tế trong lúc đó. Lúc đó là thời đại hiếu chiến, nước nào cũng lo tăng cường binh bị thì Lão Tử bảo rằng: “Giai binh giả bất tường chi khí”. (Quân lực mạnh, là thứ chẳng lành), và rằng: "Dĩ Đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cưỡng thiên hạ". (Kẻ biết dùng Đạo mà phò chúa, thì chẳng lấy chiến tranh làm phương tiện, để cưỡng bức thiên hạ). Đang lúc phần tử trí thức đua nhau chu du liệt quốc, ai nấy cố gắng thuyết phục vua chúa các nước chấp nhận ý kiến của mình, mong có thể làm được cái gì đó, thì Lão Tử lớn tiếng cảnh cáo họ rằng: "Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, kịp kỳ hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ". (Được thiên hạ thường là chẳng gây nên chuyện, nếu đã gây nên chuyện, thì không đủ tư cách để được thiên hạ). Đó là lý tưởng chính trị trong thuyết "Vô vi" của Lão Tử. <br />
2/- Phản kinh nghiệm, phản ta thức. Lão Tử viết: "Tuyệt học vô tư . (Có bỏ học mới hết ưu phiền); "Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn". (Càng có học cho lắm, càng có hại cho việc tu Đạo); "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri". (Người có học vấn chẳng bao giờ nói, kẻ hay nói mới là người không hiểu biết), Sở dĩ phải phản kinh nghiệm, phản trí thức, theo Lão Tử có hai lý do: Một là kinh nghiệm và trí thức khiến cho người ta hay lo âu, cho nên bảo "Tuyệt học vô tư ; hai là, kinh nghiệm và trí thức gây trở ngại cho việc tu Đạo, bởi lẽ hiểu biết nhiều chừng nào, thì càng thúc đẩy lòng ham muốn, đòi hỏi của người ta, đồng thời cũng dễ làm cho người ta nảy sinh cảm giác bất mãn với hiện tại, cho nên đã báo "Học nhiên hậu tri bất túc” (Câu này có nghĩa là: Học mà biết cho nhiều, rồi mới thấy đời người hãy còn thiếu lắm thứ quá. Lâu nay người ta thường hiểu ìâm là: Càng học càng thấy sự hiểu biết của mình hãy còn non kém). Bởi Lão Tử nhận định ràng, việc tu Đạo cần phải tĩnh mịch, đạm bạc, đẹp hết lòng ham muốn đi mới được. Nghĩa là Đạo của Lão Tử chẳng có liên hệ gì tới trí thức và kinh nghiệm cả, mà là thứ công phu thủ tĩnh, quả dục, đặng có thể đạt tới cảnh giới thanh tịnh, vô vi. Trở lại câu "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri". Cần phải hiểu ý nghĩa chữ "Tri" này là thứ tri trực giác, chẳng học mà tự mình ngộ ra chân lý của trời đất. Sở dĩ sau hai triều nhà Hán, Nho, Đạo và Thích, tam giáo có thể kết hợp nhau được, là thông nhau ở chỗ thanh tĩnh quả dục. <br />
3/- Chất phác quy chân. Đây là đời sống lý tưởng của Lão Tử và tất cả những ai, là người tu Đạo chân chính. Bối cảnh dựng lên lý tưởng này có hai mặt: Về mặt chính trị, là thái độ ghét bỏ hành động bạo lực và đời sống xa xỉ, tâm tư dối trá của tầng lớp quyền thế trong xã hội đương thời; về mặt cá nhân đã gọi là "Ẩn quân tử", thì chất phác quy chân (Đời sống đơn giản bình dị, trở về với chân thật, với thiên nhiên), mới thật là đúng với cảnh sống mà Lão Tử hằng mơ ước. <br />
4/- Công thành phất cư. Đây là nguyên tắc ở đời mà Lão Tử đem ra dạy đời. Đời bao giờ cũng khuyến khích người ta, gắng sức làm để được hưởng thành quả tốt đẹp, do công lao của mình tạo nên. Nhưng Lão Tử cho rằng, mọi thành quả đó, rất có thể đưa lại tai họa cho con người. Lão Tử bảo: "Sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trường nhi bất tể, thi vi nguyên đức". (Sống mà không giữ của, làm mà chẳng ỷ công, dù lớn cũng không đứng làm chủ tể, đó mới là cái đức nguyên vẹn) và rằng: "Công toại thân thoái, thiên chi đạo". (Khi đã đạt tới thành quả rồi thì rút lui ngay, là đúng với lẽ trời) và "Vi giả bại chi, chấp giả thất chi". (Kẻ ham làm sẽ gặp thất bại, kẻ ôm giữ sẽ bị mất mát). Vê điểm này Phạm Lãi làm được, Văn Chủng làm không được. Cả hai đều là công thần của Việt Vương Câu Tiễn, lịch sử đã chứng minh ai họa ai phước. <br />
5/- Họa phước vô môn. Tránh họa cầu phước, là lẽ thường tình của con người, nhưng Lão Tử cho rằng, cái lẽ đó không chắc chắn. Bởi trong quá trình đời người, đâu là họa đâu là phước, thật khó nói lắm. Lão Tử bảo rằng, họa ư, lắm khi phước nhờ đó mà có; phước ư, biết đâu đó là căn nguyên của họa. Cho nên đã có chuyện "Tái ông thất mã, yên tri phi phúc". <br />
6/- Dĩ nhu khắc cương. Lão Tử tin rằng "Nhu nhược thắng cương cường", và giải thích rằng: "Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng". (Dưới bầu trời này, còn thứ gì yếu mềm hơn nước, thế mà kẻ mạnh phá được thành trì kiên cố, cũng chẳng thể thắng nổi nước). Thuyết "Nhu khắc cương", hẳn là một trong những đặc điểm của triết lý Lão Tử. <br />
Tư tưởng của Lão Tử rất thích hợp với những ai, là kẻ ưa sống gần gũi thiên nhiên,lại có phần tương thông với đức tính khiêm nhường, dung thứ, nhẫn nại của nhà Nho. Do đó, người theo Đạo học thích sống vào nơi thâm sơn cùng cốc, tĩnh tịch, xa lánh bụi trần tự tay kiếm ăn, tự mình chữa bệnh, người đời gọi đó là "Tu Tiên", mang sắc thái huyền bí như một tôn giáo, cho nên thường gọi là "Đạo giáo". </div><div style="text-align: justify;">3. Giá Trị Đạo Học</div><div style="text-align: justify;"> Đạo của Lão Tử vạch một lối thoát cho những ai, là kẻ bất mãn thế cuộc nhiễu nhương, đầy cạm bẫy như thời Xuân Thu Chiến Quốc, có được một lẽ sống riêng, hợp với bản chất chân thật của mình. Đồng thời tránh được lối phản kháng bằng hành động phạm pháp cá nhân, hoặc bạo lực tập thể, khiến cho xã hội mà mình đã bất mãn càng thêm hỗn loạn, rối ren. Đó là giá trị về xã hội. <br />
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, đang lúc vua quan các nước thực thi chính sách kiêm tính, để trở thành nước lớn, khả dĩ "kẹp thiên tử nhi lệnh chư hầu . (Uy hiếp nguyên thủ trung ương, chỉ huy các nước địa phương). Đồng thời, phần tử trí thức cũng chủ trương “định ư nhất”, mong sao thực hiện được lý tưởng thiên hạ thống nhất thịnh trị, thì ngược lại, Lão Tử chủ trương "Tiểu quốc quả dân" (Nước nhỏ dân ít). Người cho rằng, với nước nhỏ dân thưa, thì ít có tranh chấp và dễ trị. Nhà nước chẳng phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn tự sống an lành. Lý luận đó của Lão Tử, lúc bấy giờ chẳng ai nghe theo, cả Khổng Tử cũng chẳng tin. Nào ngờ thế giới ngày nay lại có lối tư duy mới, chẳng hẹn mà gặp nhau với Lão Tử. Sau thời kỳ "Chiến tranh lạnh", có nhiều xứ khác nhau về dân tộc, tôn giáo trong cùng một quốc gia, đang đua nhau đứng lên tranh đấu, giành quyền độc lập tự chủ, như các nước cộng hòa trong Liên bang Sô viết, liên bang Nam Tư và khối dân miền bắc Iraq, ấn Độ hiện nay, cũng như Mông Cổ, Tây Tạng của Trung Quốc từ trước. Trực diện với vấn đề này, quốc tế tuy chẳng tiện can dự trực tiếp, nhưng cũng không phản đối, thậm chí còn khuyến khích một cách gián tiếp nữa là khác. Đó là giá trị về chính trị. <br />
Tuy nhiên, thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách nhiệm, nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ bảo nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi". </div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-59075530154831677652010-10-08T01:56:00.000-07:002010-10-08T02:00:37.048-07:00KHỔNG TỬ<div align="right" style="text-align: justify;"></div><div align="right" style="text-align: justify;"></div><div align="right" style="text-align: justify;"></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwMIag9UUdr-YTQyuTZUsR-cQi2p_RSfkiptHfanMI7eqCBunQqWqc7d34IzA0hC0KwgFcM0zc3Pe3eaHYks6n4fhKg38bde00Q6gxX1JSJtZU4XqTVtuwehRsV9SfcZvJ8u28T9BdDMc/s1600/confucius2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="237" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwMIag9UUdr-YTQyuTZUsR-cQi2p_RSfkiptHfanMI7eqCBunQqWqc7d34IzA0hC0KwgFcM0zc3Pe3eaHYks6n4fhKg38bde00Q6gxX1JSJtZU4XqTVtuwehRsV9SfcZvJ8u28T9BdDMc/s320/confucius2.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">551 – 479 trước Công Nguyên </div><div style="text-align: justify;"><br />
1 . SƠ YẾU CUỘC ĐỜI <br />
Khổng Tử họ Khổng tên Khâu, tự Trọng Ni nguyên quán ở Làng Xương Bình, nước Lỗ đời Chu. Nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Cha tên Hột, là một lực sĩ trứ danh đương thời. Có lần nước Tề tiến công nước Lỗ, quân Lỗ bị vây. Vào đêm, Khổng Hột chỉ huy 300 dũng sĩ phá được vòng vây, cứu thoát quan Đại Phu là Tạng Hột. Sau đó, cưới bà Nhan Thị, thân sinh Khổng Tử. <br />
Cha là một chiến sĩ anh dũng, nhưng chẳng may mất sớm vào năm Khổng Tử mới lên ba tuổi. Kế đó chẳng bao lâu, mẹ lại qua đời, Khổng Tử trở thành đứa con mồ côi, trong một gia đình nghèo khổ, nhưng rất hiếu học, năm ba mươi tuổi đã là một nhà học vấn nổi tiếng. Năm đó, Khổng Tử bắt đầu nhận dậy học trò, là người đầu tiên mở trường tư thục vào thời phong kiến, vốn chỉ con em vua quan, <br />
hàng quý tộc mới có dịp học hỏi từ chương. <br />
Khổng Tử sống vào một thời đại, về mặt chính trì, đang lúc chế độ phong kiến nhà Chu bắt đầu băng hoại, bởi chư hầu phân tranh, từ thời Xuân Thu chuyển sang Chiến quốc Khổng Tử tuy hành nghé dạy học, nhưng vốn nuôi chí tìm minh chúa, để thực hiện lý tưởng chính trị của mình. Ngài từng làm quan Trung đô Tể, rồi thăng chức Tư Không, Tư Khấu. Song, nhận thấy nhà vua cùng chư khanh tướng nước Lỗ chẳng thật lòng trọng dụng, bèn từ quan, dẫn một số môn đệ cùng chí hướng, đi chu du liệt quốc trong khoảng thời gian từ 54 tuổi, đến 68 tuổi, cố tìm cho được vị minh chúa nào, khả dĩ tiến nạp chính kiến của mình. Nhưng tiếc thay, đã phí mất mười bốn năm trời mà chẳng được như ý muốn. Trong khi thất vọng, ngài quay về nước Lỗ, chuyên tâm vào việc tu biên cổ tịch, soạn định Ngũ kinh: Thư, Dịch, Thi, Lễ, Nhạc, và hoàn thành cuốn Xuân Thu. Năm năm sau thì Ngài mất, thọ bảy mươi ba tuổi. <br />
Theo sự khảo cứu của học giả Lương Khởi Siêu, tuy sách Sử Ký có ghi, Khổng Tử đã từng bệ kiến bảy mươi hai vì vua, nhưng thật sự là chỉ có đến các nước Chu, Tê, Vệ, Trần mà thôi, họa chăng có ghé qua ba nước thuộc quốc của Sở là Diệp, Na Tống và Trịnh: Nếu đúng vậy, thì chưa ra khỏi biên giới của hai tỉnh Sơn Đông và Hà Nam ngày nay. Bởi trong thời gian Khổng Tử đi chu du liệt quốc, nhằm lúc cục diện tranh bá giữa Chư hầu ngày càng quyết liệt nhiều nước gặp cảnh binh đao, biến loạn bất an, thành thử chỉ có thể quanh quẩn giữa các nước nhỏ, như là Vệ, Trần, Tống, Tào, Trịnh mà thôi,lắm lúc lại gặp phải biến cố nguy nan: Lần thứ nhất, khi vừa mới đến Sứ Khuôn, trên đường sang nước Trần, người học trò đẩy xe cho Khổng Tử là Nhan Khắc. Có người bảo rằng, trước đó Nhan Khắc có mặt trong hiện trường Dương Hỗ tàn sát người Khuôn, lại khéo làm sao, gương mặt Khổng Tử hơi na ná Dương Hỗ, nên thầy trò bị dân làng bắt giam cả đám, định giết trả thù. Đang lúc nguy cáp, Khổng Tử bảo: "Khi Trời chưa có ý diệt Chu, vậy người Khuôn cũng chẳng làm gì ta đâu . Sau đó, dân làng hiểu ra là sự ngộ nhận. Lần thứ nhì xảy ra ở nước Tống, Khổng Tử đang ngồi giảng bài cùng các môn đệ dưới gốc cây to, bỗng có tin Hoàn Thôi, quan Tư Mã nước Tống có ý định giết Ngài, đám đệ tử cả kinh, dục Khổng Tử tức tức lên đương tẩu thoát. Nhưng Ngài bảo: trời đã để đức cho ta, Hoàn Thôi chẳng làm gì được đâu , Chính Hoàn Thôi cũng ngại người đời khiển trách. nên đã. bỏ qua ý định đó. Lần thứ ba xảy ra ở nước Trần, khi Khổng Tử cùng đám học trò tới nước Trần, thì vừa lúc cạn lương thực, ngay nơi xứ lạ quê người chẳng biết phải nhờ cậy vào đâu, lại nhằm lúc trong số học trò có kẻ ngọa bệnh bởi thiếu ăn. Trò Tử Lộ nóng tánh, hỏi thầy: "Quân tử cũng (có ngày) bần cùng chăng?" Khổng Tử đáp : "Quân Tử dù nghèo nhưng kẻ tiểu nhân nghèo là hay làm bậy". Cứ theo ba trường hợp trên, chứng tỏ là một vĩ nhân, ắt phải kiên trì lý tưởng của mình với tinh thần bất khuất: Hơn nữa, để đạt tới điểm này, chẳng những chỉ cậy vào ý chí mà thôi còn phải có đạo hạnh lớn và trí tuệ cao nữa, không vì nghịch cảnh trước mắt mà nản lòng, như sách Luận Ngữ có câu: "Ngô thiếu giã tiện, cố đa năng bỉ sự (Thuở nhỏ ta nghèo, cho nên đã làm được những công việc thấp hèn chẳng hạn như Ngài đã từng làm thư ký kế toán và đi chăn cừu) <br />
Tóm tắt, suốt cuộc đời Khổng Tử đã được diễn tả trong sách Luận Ngữ với đoạn văn: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi trì thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ . Khổng Tử đã bảo: <br />
- Ta lên mười lăm tuổi là có chí về học. Chữ "Học" đây là học vấn và học thuyết. Nghĩa là năm mười. lăm buổi, Khổng Tử đã lập chí trau dồi học vấn, nghiên mài học thuyết. <br />
- Đến năm ba mươi tuổi thì lập. Chữ "Lập" đây là lập thân, độc lập. Nhờ vào công phu nghiên cứu học vấn đã thành tựu nhất định, cho nên Ngài có một lập trường rõ rệt, là phải làm cái gì đó. Cái mà Khổng Tử định làm là, ra làm quan tham chính, để thực hiện lý tưởng chính trị của mình. Song chẳng may lại gặp phải trở lực lớn, bởi quyền thế của tập đoàn thống trị đương thời, chỉ biết cấp công trục lợi, cho là mục tiêu chính trị của Khổng Tử quá cao siêu, khó có thề đạt tới được. Tuy nhiên, suốt đời Ngài vẫn cứ giữ nguyên lập trường đó, bất di bất dịch. <br />
- Sang bốn mươi tuổi (vẫn) không mê hoặc. Đã đến bốn mươi tuổi rồi mà vẫn chưa đắc chí. Nhưng tâm nguyện chấn hưng văn hóa, cứu vớt thế gian của Khổng Tử vẫn không nguôi, dù gặp lúc trong xã hội thị phi bất phân, trắng đen vô định. Ngài hằng tâm niệm "Đến điều sống đục, sao bằng thác trong". Tử viết: "ái chi dục kỳ sinh, ác chi dục kỳ tử, ký dục kỳ sinh, hữu dục kỳ tử, thị hoặc giã (Thương thì muốn nó sống, ghét là muốn nó chết; đã mong nó sống, lại muốn nó chết, thế là mê hoặc rồi). Lời lẽ này của Khổng Tử, chẳng phải xuyên qua trình tự luận lý mà ra, hẳn là một lời nói thẳng thắn, đày trí tuệ mà Ngài đã thể nghiệm được ngay trong đời sống thực tế. Theo quan niệm của Khổng Tử, "Nó" đây tức là toàn dân. <br />
Đã năm mươi tuổi là hiểu được mạng trời. Xưa nay có nhiều lối giải thích về ý nghĩa của hai chữ "Thiên mệnh". Có nơi cho là "lẽ đương nhiên"; có chỗ bảo là "quy luật tự nhiên”. Nếu ta đối chiếu lại với đời sống hoạt động chính trị của Khổng Tử, và tham chiếu chữ "Mệnh" hoặc "Thiên Mệnh" đã xuất hiện nhiều chỗ trong sách Luận Ngữ, thì thấy chữ "Mệnh" có nghĩa là "hạn định", "giới hạn". Phàm là một con người, dù có vĩ đại đến mấy và sống được bao lâu đi nữa, cũng có lúc không thể làm được, hoặc không làm gì được, hay là có làm, nhưng rút cuộc chẳng thành tựu được. Năm Khổng Tử năm mươi tuổi là đang lúc giữ chức Tư Khấu tại triều, nhưng với cương vị thấp hèn này, đừng nói là thực hiện lý tưởng văn hóa chính trị, chỉ nguyên vấn đề nội chính của một nước Lỗ nhỏ bé, cũng chẳng ảnh hưởng được là bao. Đến chừng đó, tuy Khổng Tử vẫn giữ lập trường cố hữu, biết là chưa chắc đã làm nổi cũng cứ làm, nên Ngài đã bỏ công bỏ thì giờ, đi du thuyết các nước thử xem. Nhưng một khi tuổi đã về chiều, thì cơ may cũng chẳng còn là bao. Vì vậy Khổng Tử đã ngộ ra một lẽ: Dầu có cố làm đi nữa, cũng sẽ bị giới hạn bởi lằn mức của đời người. <br />
- Hai câu sáu mươi tuổi "nhĩ thuận" và bảy mươi "tòng tâm sở dục, bất du cư” đều là tả về cảnh giới đức độ của con người đạo hạnh. Vì tuổi đã về già mà sự nghiệp vẫn chưa thành đạt, Khổng Tử đành phải lui vào cảnh giới tu thân, lập đức, lập ngôn để đời. Phàm là một con người, sự thành tựu về công danh sự nghiệp, ngoài ý chí và tài năng ra, còn tùy thuộc điều kiện khách quan. Ngược lại, cảnh giới thăng tiến của bản thân, thì tự mình có thể làm chủ được Mặt khác, khi phấn đấu về sự nghiệp, thì phải tập trung toàn lực, theo đuổi mục tiêu cố định, còn việc tu luyện cho bản thân, là có thể gạt bỏ hết những gì nhắm vào mục tiêu cố định. Cho nên tai nghe chẳng thấy chướng, tự do suy tư và hành động theo ý riêng mình, nhưng cũng không vượt ra ngoài quy củ xã hội. Tinh thần bỏ qua mục tiêu cố định của Khổng Tử, có khác với tinh thần xả thân cứu thế của Giê Su Cơ đốc, cũng không có ý nghĩ tịch mịch như Thích Ca Mâu Ni, mà là hoàn toàn tự do cởi mở, thuộc về đời sống riêng tư của một người phàm tục. Sở dĩ đời sau suy tôn Khổng Tử là "Vạn thế sư biểu”, bởi Ngài đã mải miết dạy dỗ hàng ngàn học trò, để có được một lực lượng hùng hậu, thực hiện lý tưởng của mình mà chưa hề cảm thấy mỏi mệt. </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">2. Chủ Thuyết Nho Học</div><div style="text-align: justify;">Nguyên chữ "Nho", có nghĩa là người hành nghề dạy học mà Khổng Tử là người khởi xướng. Sau đó có nhiều học thuyết ra đời, một số được xếp ngang hàng với Khổng học, cho nên lúc bấy giờ, người ta coi "Nho" là một học phái do Khổng Tử khởi xướng. <br />
Trước sau Khổng Tử đã dạy đến hơn ba ngàn học trò. Những kẻ sĩ khác thấy vậy cũng noi theo, mở rất nhiều lớp tư thục, số người theo học càng ngày càng đông, đó là cái mốc trong lịch sử, cũng là một bước tiến vô cùng quan trọng của nền văn hóa Trung Hoa. Riêng với Khổng Tử, động cơ thúc đẩy Ngài từ quan đi dạy bọc, là nhằm mục đích tạo thành một tập đoàn trí thức Nho học, đi cổ động chấn hưng nền luân lý tôn pháp trong chế độ phong kiến nhà Chu, lấy "Trung hiếu làm đầu, đang bị chư hầu phá hoại, bởi vua chúa nước nào cũng chỉ biết tranh quyền đoạt lợi mà thôi. CÓ lẽ lúc đó chính Khổng Tử cũng chẳng ngờ, là một khi đã có nhiều phần tử trí thức xuất thân từ giới bình dân, đông chừng nào, thì việc chấn hưng lại nền luân lý cổ truyền càng khó khăn thêm chừng nấy. Hậu quả đó đã được chứng minh, từ cuối thời Xuân Thu sang thời Chiến quốc, có nhiều học thuyết khác mọc lên như nấm, họ không công nhận thứ luân lý tôn pháp, trong đó có sự bất bình đẳng, nếu cứ theo chế độ phong kiến nhà Chu. <br />
Chế độ phong kiến nhà Chu có hai đặc điểm rõ rệt: Một là, dưới Thiên tử, tức kẻ thống trị đứng đầu chính quyền trung ương, còn có nhiều bậc vua chúa được phong với tước vị Công, Hầu, Bá, Tử, Nam tại các địa phương. Địa vị của mỗi vị vua địa phương đó, với Thiên tử vẫn là thần thuộc, nhưng với nơi đất thọ phong lại là kẻ cai trị muôn dân theo thể chế thế tập, cha truyền con nối (tức gia đình trị). Hai là, địa chủ cùng kẻ thống trị là một. Nông dân nếu chẳng là nô lệ thì là tá điền, không có ruộng đất tư hữu, ruộng đang làm cũng không được chuyển nhượng cho người khác. Để duy trì trật tự cho chế độ phong kiến, cần có một quy tắc thừa kế hoàn chỉnh trong xã hội, đó là quy tắc tôn pháp. Dựa theo chế độ phong kiến, quy tắc tôn pháp cũng lấy gia tộc làm nền tảng, chỉ khác có ở chỗ, phong kiến đối ngoại, đưa người trong gia tộc ra các nơi, lập thành nhiều chi nhánh trong hệ thống cai trị thần dân; còn tôn pháp về đối nội, ấn định ngôi thứ tôn ti ngay trong nội bộ gia tộc. Cha mẹ sanh con, được chia làm hai dòng "Đích" và "Thứ". Các con của người vợ nguyên phối là dòng Đích, kỳ dư, do bất cứ người vợ nào khác sanh ra, đều thuộc dòng Thứ. Con trưởng nam trong số con Đích, là người thừa kế ngôi vị ưu tiên nhất. Trường hợp Đích trưởng nam mất sớm, hay bất lực bởi nguyên do nào đó, thì lập Đích thứ nam (Con trai kế tiếp) và cứ tuần tự như vậy. Nếu chẳng được đứa con trai nào trong dòng Đích, thì lập con trưởng nam ở dòng Thứ. Dòng Đích gọi là đại tôn, dòng Thứ gọi là tiểu tôn. Theo đó, vương thất nhà Chu lập Đích trưởng nam do vương hậu sanh ra làm Thái Tử. sẵn sàng thừa kế ngôi Thiên Tử, còn các con khác thì được phong làm chư hầu. Chư hầu cũng do Đích trưởng nam (gọi là Công tử hay Thế Tử) kế vị, nếu chẳng còn đất để phong cho các con khác, thì chỉ được phong hàm Đại phu, liệt danh vào hàng quý tộc thôi. Trước thiên hạ, Thiên Tử là đại tôn, chư hầu là tiểu tôn, nhưng chư hầu với bản quốc là đại tôn, khanh đại phu là tiểu tôn. <br />
Nho học của Khổng Tử tuy đặt trên nền tảng xã hội phong kiến, nhưng rất chú trọng về nhân bản, nhầm phát huy chữ "Nhân" mà Đức Khổng cho là có sẵn trong bản tánh con người. Xuất phát điểm của chữ Nhân là " Ái" với "Hiếu”; tiêu chuẩn của chữ Nhân là "Trung" với "Thứ". “Trung" có nghĩa là tận”tình với lòng mình, được thể hiện bằng hành động "Trung quân ái quốc"; "Thứ” có nghĩa là suy bụng ta ra bụng người”với lòng quảng đại", được thể hiện như câu "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (điều mình không muốn đừng làm cho kẻ khác). Tư tưởng của Khổng Tử là một triết lý nhập thế, Ngài khuyến khích người đời, khi "Độc thiện kỳ thân" thì cũng nên "Kiêm thiện thiên hạ, tạo dựng hạnh phúc cho quảng đại quần chúng. <br />
Sách Luận Ngữ có nhĩeu chỗ ghi lại lời suy tôn của Khổng Tử, hết sức đề cao đức tính của các vì tiên Đế như Nghiêu, Thuần và Hạ Ngu. Sở dĩ phải làm như vậy, là vì trong tay Khổng Tử không nhất binh nhất tốt, cũng không một tấc sắt mà lại nuôi chí lớn bảo trì, tuyên dương pháp chế nhà Chu, thì chỉ còn cách dựa vào uy danh của Nghiêu, Thuần, Ngu và tự coi mình là người thừa kế nền văn hóa cổ truyền đó. Nhưng phàm là một học giả, ngu chỉ biết bảo trì di sản văn hóa truyền thống, chẳng dám vượt qua khuôn mẫu đời xưa, thì tuyệt nhiên không thể trở thành nhân vật vĩ đại được điều quan trọng là, ngoài lời ca tụng đức tính của các vì cổ Đế ra, Khổng Tử đã xây dựng một nền triết học luân lý xã hội cho hậu thế, đó là Ngài luôn luôn nhấn mạnh chữ "Nhân" như đã nói ở trên. <br />
Chữ "Nhân" vốn đã có từ trước đời Khổng Tử, như trong hai thiên "Thục vu Điền", "Lư Linh" của kinh Thi và thiên “Kim Đằng" của Thượng Thư, đều có đề cập tới chữ "Nhân" với nghĩa chính là "Tình Thương". Tuy nhiên chữ "Nhân" đã phát triển thành triết lý, được coi như tiêu chuẩn tối cao trong hành vi của con người, lại là sáng kiến của Khổng Tử. Cuơng bởi thế giới đạo đức của Khổng Tử, vốn bắt nguồn từ ý niệm dòng máu trong xã hội tôn pháp, được thể hiện trong mối tương quan giữa cá nhân cũng như giữa một nhóm người. Như hiếu là con đối với cha mẹ, để là đàn em đối với huynh trưởng, rồi từ đó nới rộng ra ngoài, tín đối với bạn bè, trung đối với vua chúa. Riêng chữ "Nhân " thể hiện trong nội bộ tập thể dòng máu là mến yêu người thân thuộc, rồi từ đó nới rộng ra ngoài là "Nhân dân ái vật”. Như vậy, cái đức mục "Nhân" là vừa có đối tượng nhất định, đồng thời lại có đối tượng vô định, một mặt gom những đức tính Hiếu, Đeă, Trung, Tín, mặt khác lại là nguyên lý đạo đức phổ biến, bao trùm cả xã hội loài người. Khi "Nhân" là đức mục có tính cách phổ biến, thì không thể giới hạn trong khuôn khổ dòng máu được, điểm này lại mâu thuẫn với tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội tôn pháp đương thời. Để dung hoà điểm mâu thuẫn đó, Khổng Tử kêu gọi "Vi chính dĩ đức" (Trị nước bằng đức), gọi tắt là "Đức chính"; "Quân tử đốc ư thân, tắc dân hưng ư nhân" (Khi người quân tử thật lòng với người thân, thì dân sẽ được hạnh phúc, nhờ bề trên có lòng nhân). Quân tử đây tức là người lãnh đạo tốt, câu nói trên được gọi tắt là "Nhân chính", hàm nghĩa từ chỗ gia trưởng từ ái con em trong nội bộ dòng máu, nới rộng ra quân vương từ ái thần dân, coi như con em của mình trong đoàn thể chính trị. <br />
Khi đệ tử thắc mắc về vấn đề, sau khi người ta chết đi sẽ như thế nào, và thái độ đối với quỷ thần phải làm sao, thì Khổng Tử dạy rằng: "Bất tri sinh yên tri tử" (Ta chưa biết hết về đời sống, thì làm sao biết được đời chết); và "Kính quỷ thần nhi viễn chi" (Ta kính trọng quỷ thần, nhưng nên lánh đi là hơn). Chứng tỏ tư tưởng của Khổng Tử là triết lý nhân sinh, chú trọng về đời sống thực tế hơn là những gì huyền ảo. <br />
Trở lại với nguyên thủy, trước tình thế chư hầu phân tranh lúc bấy giờ, lời khuyến nghị của bất cứ ai, cũng khó lọt vào tai các vua chúa, nếu đặt nặng về đạo đức luân thường, buộc lòng Khổng Tử phải lý tưởng hóa cổ Đế Nghiêu, Thuấn, đó là một cách chọn lựa chẳng đặng đừng. Chẳng may đến tay các nhà Nho học từ Mạnh Tử trở đi coi đó như là chân lý phổ quát, hậu quả đưa đến "Lịch sử quan thoái hóa", trong nền văn hóa Trung Hoa truyền thống, rồi đẻ ra một số "Hủ Nho", nhất là Tống Nho, khiến cho xã hội Trung Hoa trải hơn hai ngàn năm mà chẳng khai thoát nổi khuôn tấc trói buộc của "Truyền thống chỉ đạo (The tradition directed). Đó là sự lầm lẫn, gây tai hại lớn lao cho đời sau. Cho nên có người nghĩ rằng, Mao Trạch Đông đòi "Đả đảo Khổng giả điếm", xét ra cũng có chút lý do nào đó. </div><div style="text-align: justify;">3. Giá Trị Nho Học</div><div style="text-align: justify;"> Muốn đánh giá một học thuyết chẳng phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, đời nay người ta đã khẳng định, giá trị của Nho học ít nhất có hai điểm chính sau đây: <br />
Điểm thứ nhất là, phát huy nguồn năng TÌNH THƯƠNG. Các môn sinh vật học, nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học và văn hóa học đời nay, đều có giải thích rằng: <br />
1/- Sự trưởng thành liên tục trong hình thức sinh tồn của vạn vật; <br />
2/- Sự sinh nở và tồn tại liên tiếp của các chủng loại; <br />
3/- Sự chỉnh hợp và duy trì sức khỏe của cá nhân; <br />
4/- Sự thừa kế và thịnh vượng của văn hóa xã hội, nhất nhất đều cậy vào nguồn năng TÌNH THƯƠNG. Nay ta hồi cố lại lịch sử cổ xưa cái chết của SOCRATES, triết gia Tây phương (469 - 399 TR.KN.TL.), Chúa JÉSUS bước lên thập tự giá, lòng từ bi của Phật tổ THÍCH CA MÂU NI cùng thuyết "Nhân ái" của Khổng Tử, đều đã ấn chứng cho sức mạnh vô biên của "năng lượng tình thương", vốn dĩ tồn tại trong bất cứ một con người nhỏ bé, phàm phu tục tử nào, thậm chí cả trong các loài động vật vô tri. Vậy chính phạm vi phóng xạ của năng lượng tình thương đó, rộng hay hẹp và nhiều hay ít, là mức độ vĩ đại của một con người, cuơng là khuôn thước để đo lường giữa nhân vật vĩ đại và con người tầm thường. Khổng Tử chẳng những chỉ tuyên dương NHÂN ái, mà còn khẳng định sức mạnh của tình thương qua câu "Nhân giả tất hữu dũng" (Kẻ có lòng nhân ắt là người can đảm). <br />
Điểm thứ hai là, đời nay người ta công nhận, muốn xây dựng một xã hội dân chủ tự do, trước hết phải bồi dưỡng cho tâm hồn cởi mở. Triết lý của Khổng Tử có từ trước đây hai ngàn năm, đã chứa đựng tư tưởng đó rồi, chỉ tiếc là, trong xã hội Trung Hoa truyền thống, lại thiếu hẳn môi trường tương ứng để phát triển tư tưởng cởi mở đó. Riêng một điểm nữa là, cả cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử ít khi bàn đến việc trau dồi học vấn qua công phu dùi mài sách vở. Điều mà Ngài coi trọng nhất, là nhân phẩm con người trong đời sống thực tế, chẳng hạn như Tử viết: "Sự phụ mẫu năng kiệt kỳ lực, sự quân năng ta kỳ thân, dữ bằng hữu giao ngôn nhi hữu tín, tuy viết vị học, ngô tất vị chi học di". (Người nào mà phụng sự cha mẹ hết sức, thờ chúa hết mình, chơi với bạn giữ lời hứa, tuy chưa học, ta nhất định coi như người đã có học rồi). Như vậy, chân giá trị của Nho học là thực hành, không là từ chương. Tuy nhiên, bất luận thời đại nào, giá trị của một học thuyết ít nhiều cũng tùy thuộc vào nấc thang giá trị trong xã hội của thời đại đó. Khi văn minh vật chất Tây phương đưa con người đến chỗ chỉ biết có hưởng thụ, trụy lạc thì người ta cảm thấy cần phải dựng lại "Khổng gia điếm", để dạy bảo thiên hạ biết liêm sỉ, trọng luân ly đạo đức cổ truyền. Tựu trung, Nho học khích lệ lòng nhân ái của con người, dạy người đời trung thành với bề trên, hiếu thuận với cha mẹ, tín nghĩa với bạn bè. Nghĩa là nhất nhất đều phải giữ đúng chữ "Lễ", rất có lợi cho trật tự xã hội, càng có lợi cho tầng lớp lãnh đạo quốc gia cuơng như bậc phụ huynh trong gia đình. Cho nên kể tử nhà Hán trở đi, tuyệt đại đa số vua chúa các trĩu đại, đều "Nhất tôn Khổng Tử", nâng địa vị Khổng Tử lên bậc Thánh, đưa Khổng giáo vào hàng chánh thống trên nền văn-hóa Trung Hoa, làm cho các học thuyết khác lu mờ đi. Đó cũng là điều đáng tiếc về một khía cạnh nào. </div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-91189641163321309682010-10-08T01:39:00.000-07:002010-10-08T01:42:27.168-07:00ĐÔI ĐIỀU VỀ CÔ CHỦ NHIỆM LỚP SP TRIẾT K60<div align="right" class="separator" style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2R0lya_caW_SuFSeLRi-pIC6xaxaH9S1O-B7eONo6Dex33IY5XQfbw6hez2TulHKssnSlGT4gZKEQs3fpbBcssVxlhmOEqJRCmubsPPaqYmWdgtWMtRng8loFAIQRFxgdCCI-ImblEJ4/s1600/p_quynh.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; cssfloat: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"></a><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhSv1CB9LA9yKsyKQOgnB-gqAqC2ZdJ1-Ny9FSqWVO8A22McUFnwiTAJ1RsZzkPYZcD4gCgpAApUNYml494F-ZdxItNFSGb1soiSdtUBlb12_L6QWEF9EGSxmJGz_GdKn2WlHrmg1ZoyD0/s1600/COQUYNH.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="212" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhSv1CB9LA9yKsyKQOgnB-gqAqC2ZdJ1-Ny9FSqWVO8A22McUFnwiTAJ1RsZzkPYZcD4gCgpAApUNYml494F-ZdxItNFSGb1soiSdtUBlb12_L6QWEF9EGSxmJGz_GdKn2WlHrmg1ZoyD0/s320/COQUYNH.jpg" width="320" /></a></div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: left;"> </div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: left;">1. Thông tin cơ bản</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;">- Ngày sinh: 05/05/1976.</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;">- Chỗ ở hiện nay: P.313B - B2 - Tập thể ĐHSP Hà Nội</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;">- Điện thoại: 047549045 – 0903249980</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;"><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none;">- Email: <a href="mailto:quynhphan1@yahoo.com">quynhphan1@yahoo.com</a></div></div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;">- Đơn vị công tác: Tổ Triết học.</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;"><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none;"><br />
</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2R0lya_caW_SuFSeLRi-pIC6xaxaH9S1O-B7eONo6Dex33IY5XQfbw6hez2TulHKssnSlGT4gZKEQs3fpbBcssVxlhmOEqJRCmubsPPaqYmWdgtWMtRng8loFAIQRFxgdCCI-ImblEJ4/s1600/p_quynh.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; cssfloat: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2R0lya_caW_SuFSeLRi-pIC6xaxaH9S1O-B7eONo6Dex33IY5XQfbw6hez2TulHKssnSlGT4gZKEQs3fpbBcssVxlhmOEqJRCmubsPPaqYmWdgtWMtRng8loFAIQRFxgdCCI-ImblEJ4/s1600/p_quynh.jpg" /></a>2. Hoạt động chuyên môn - khoa học: </div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none;">- Giảng dạy chuyên môn: Triết học Mác-Lênin; Lịch sử tư tưởng Việt Nam.</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none;"> - Hướng dẫn luận văn tốt nghiệp: 01.</div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none;"> - Công trình khoa học: </div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none;"> + Quan niệm xã hội về đồng tiền trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, - Kỷ yếu Hội nghị KH Cán bộ trẻ - ĐHQGHN (1999).</div></div><div style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;"> + Kinh tế gia đình, học vấn của mẹ với việc chăm sóc trẻ dưới 6 tuổi, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 4 (2006).</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;">3. Chức vụ đảm nhiệm:</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"> - Phó Bí thư Chi đoàn Cán bộ (2004 - 2005)</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"> - Bí thư Chi đoàn Cán bộ (2005 - 2006)</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"> - Tổ Trưởng Công đoàn Tổ Triết học (2005 - 2006).</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;">4. Thành tích - khen thưởng</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"> - 01 Giấy khen của Đoàn trường ĐHSPHN, </div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"> - Danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” </div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"> - 02 Bằng khen của BCH Quân sự Quận Cầu Giấy</div><div class="separator" style="border-bottom: medium none; border-left: medium none; border-right: medium none; border-top: medium none; clear: both; text-align: justify;"><br />
</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-56062528332691385242010-10-08T01:31:00.000-07:002010-10-08T01:31:23.100-07:00EBOOK: CÁC MÁC - ĂNGGHEN - LÊNIN TOÀN TẬP<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1XfSQLz_H0ubMOxxgDrCJLE4yKijgHlhyphenhyphenDIRqyPEg2jHHDGKHnDUvWQRuhG62BKgguhsw4J3MLDKaTS45VY1Z-59mR2A6vO9fgzV51X9HM91iPjZTN6PjeKFzf4VXM5SaoG-d2SINev8/s1600/Philosophy.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1XfSQLz_H0ubMOxxgDrCJLE4yKijgHlhyphenhyphenDIRqyPEg2jHHDGKHnDUvWQRuhG62BKgguhsw4J3MLDKaTS45VY1Z-59mR2A6vO9fgzV51X9HM91iPjZTN6PjeKFzf4VXM5SaoG-d2SINev8/s320/Philosophy.jpg" width="320" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><br />
</div><br />
Part 1: <a href="http://www.mediafire.com/?nzbwdmt3jwy">http://www.mediafire.com/?nzbwdmt3jwy</a><br />
Part 2: <a href="http://www.mediafire.com/?enz42nvt1mn">http://www.mediafire.com/?enz42nvt1mn</a><br />
Part 3: <a href="http://www.mediafire.com/?m2vdbyu2ywm">http://www.mediafire.com/?m2vdbyu2ywm</a>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-63837435651237489052010-10-08T01:13:00.000-07:002010-10-08T01:13:04.288-07:00TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU CỦA GS. NGÔ BẢO CHÂU<div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQvF5We8jN0C0VdZlBKPH6pmsJSmEO6icHwgqXTx0ST9-O3MbFfDwwYcaRVyKNW6QDMwjgpZYcBGeJL_Ygk9nTgiQZKAEb8qMVGqtqhB9fDNvQhTvP3gLKTamt1rraG7sHOz5ppWG23ks/s1600/images508938_NgoBaoChau.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQvF5We8jN0C0VdZlBKPH6pmsJSmEO6icHwgqXTx0ST9-O3MbFfDwwYcaRVyKNW6QDMwjgpZYcBGeJL_Ygk9nTgiQZKAEb8qMVGqtqhB9fDNvQhTvP3gLKTamt1rraG7sHOz5ppWG23ks/s320/images508938_NgoBaoChau.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Kính thưa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,<br />
Kính thưa Chủ tịch Hội đồng học hàm Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân<br />
Kinh thưa các vị khách quốc tế,<br />
Kính thưa các thầy các cô giáo,<br />
Kính thưa các quí vị, các đồng nghiệp,<br />
Các bạn sinh viên, học sinh thân mến,</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"> Trước hết tôi xin bầy tỏ tấm lòng cảm kích của tôi với nhà nước và chính phủ đã tổ chức buổi lễ mừng công hôm nay với một tấm lòng trân trọng và chân thành. Tôi cũng thực sự cảm động khi nhận thấy niêm vui, niềm tự hào của giải thưởng Fields đã được chia sẻ với đông bào khắp nơi trên cả nước. Bắt gặp sự hân hoan, niềm tự hào trong mắt các bạn học sinh, sinh viên có mặt trong buổi lễ ngày hôm nay, làm sự hân hoan, niềm tự hào của cá nhân tôi được nhân lên nhiều lần.</div><div style="text-align: justify;">Lần đầu tiên, giải thưởng Fields, giải thưởng quan trọng nhất của toán học được trao cho một nhà toán học xuất thân và có quốc tịch của một nước đang phát triển. Sự kiện này có thể sẽ tạo tiền đề cho một sự thay đổi lớn, về chất, cho toán học Việt Nam nói riêng, công tác nghiên cứu khoa học nói chung. Ít nhất đây là cái mà cá nhân tôi, và rất nhiều nhà khoa học và nhà quản lý khoa học có tâm huyết, rất hy vọng. Nhưng trước khi nói về tương lai, tôi nghĩ chúng ta nên điểm lại quá khứ, để tìm hiểu xem cái gì là nguyên nhân, những nhân tố tích cực nào đã đưa đến thành công ngày hôm nay.</div><div style="text-align: justify;">Tôi sinh ra trong chiến tranh chống Mỹ và lớn lên trong hoàn cành kinh tế khó khăn của thời kỳ hậu chiến. Tuy không ai thích thú chuyện ôn nghèo kể khổ, ta vẫn không thể không nhớ lại những yếu tố lập thành con người ta, cả về thể xác lẫn tinh thần. Ngay khi còn bé, tôi đã hiểu rằng bố mẹ phải nhịn ăn, nhịn mặc để nuôi tôi khôn lớn. Gần hai mươi năm trở lại đây, tôi sinh sống ở nước ngoài, rất lâu ở Pháp, gần đây ở Mỹ. Tiếp xúc nhiều với cuộc sống ở nước ngoài, tôi có hiểu ra một điều rằng, tuổi thơ của tôi và các bạn cùng lứa tuổi, có thể thiệt thòi hơn về chuyện ăn, chuyện chơi, nhưng về chuyện học tập thì hoàn toàn không, thậm chí theo một nghĩa nào đó, tôi còn có nhiều điều kiện thuận lợi đặc biệt. Sinh ra trong một gia đình trí thức truyền thống, việc học hành của tôi luôn là ưu tiên số một của bố mẹ. Có lẽ vì bố mẹ đều là những nhà khoa học, niềm ham mê khoa học, giá trị tuyệt đối của tri thức đã ngấm vào máu tôi từ lúc nào mà không biết. Trong hầu hết các gia đình Việt Nam, việc học hành rất được coi trọng, nhưng tình yêu tri thức, yêu khoa học, thì theo ý kiến chủ quan của tôi vẫn là chuyện hiếm. </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Điều kiện thuận lợi đặc biệt nữa cần kể đến là tuổi học trò của tôi đã được cộng đồng toán học Việt Nam nuôi dưỡng. Tôi hiểu cộng đồng toán học theo nghĩa rộng, từ thầy Tôn Thân giáo viên chuyên toán trường Trưng Vương, đến thầy cô khối chuyên toán A0 trường Đại học tổng hợp, cho đến nhiều nhà toán học trẻ vào thời đó đã dạy tôi với tất cả sự tâm huyết của mình, hoàn toàn vô tư trong hoàn cảnh kinh tế vô cùng khó khăn của lúc ấy. Tôi không thể kể hết tên các anh, các thầy nhưng xin lấy ví dụ thầy Phạm Hùng khối chuyên toán. Tôi đến học thầy trong căn buồng 8 mét vuông, lúc nào cũng nghi ngút mùi thuốc bắc vì thầy hay đau ốm. Nhưng thù lao duy nhất thầy Hùng nhận từ bố mẹ tôi đôi khi là cân đường, đôi khi là vỉ thuốc bổ. Trong cộng đồng toán học Việt Nam, việc người đi trước nắm tay người đi sau là một chuyện tự nhiên . Gần đây, do có cọ sát với một số ngành khoa học khác, tôi mới sực hiểu ra rằng, tinh thần thương yêu, đoàn kết của cộng đồng toán học Việt Nam là một cái gì rất hiếm hoi, đáng quí. Khoa học của nước ta nói chung, và toán học nói riêng, chưa có một vị trí xuất sắc trên thế giới, nhưng nếu không có tinh thần đoàn kết, thương yêu nhau, cùng với tinh thần nghiêm khắc, không bao che cho những yếu kém về học thuật, thì toán học Việt Nam cũng như các ngành khoa học khác, sẽ không có bất kỳ một cơ hội nào để tiến bộ.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Cái may mắn đặc biệt tiếp theo là việc được chính phủ Pháp cấp học bổng để sang Pháp học đại học. Là một sinh viên nước ngoài, nhưng trong suốt quá trình học tập ở Pháp, chưa lần nào tôi cảm thấy được kém ưu tiên hơn so với sinh viên Pháp. Ngược lại, chính ông trưởng khoa toán trường Sư phạm Paris nơi tôi học, đã khuyên tôi đi làm luận án tiến sĩ với GS Laumon, một trong những nhà toán học Pháp xuất sắc nhất, và thuyết phục ông Laumon nhận tôi làm học trò. Ông Laumon là người đã giúp tôi từ một cậu sinh viên thích học toán trở thành một nhà toán học chuyên nghiệp. Ông là một người thầy tuyệt vời, trong số 6, 7 người học trò của ông, tính đến nay đã có hai giải thưởng Fields và gần đây nhất, cô học trò trẻ nhất của ông đã được phong làm giáo sư đại học Harvard khi cô chưa đầy 30 tuổi. Trưởng thành trong nhóm khoa học do ông Laumon và một vài đồng nghiệp của ông lãnh đạo, không chỉ có tôi và anh Lafforgue, người được giải thưởng Fields vào năm 2002, còn có rất nhiều nhà toán học trẻ xuất săc khác. Ôn lại thời gian này, tôi hiểu được sự quan trọng và sức mạnh của những nhóm nghiên cứu khoa học, kết hợp những nhà khoa học có tên tuổi, có kinh nghiệm, có hiểu biết trong nhiều lĩnh vực khác nhau, với những sinh viên nghiên cứu sinh tràn trể hăng say khoa học. Tôi thực sự hạnh phúc khi giải thưởng Fields tuy trao cho cá nhân tôi, nhưng cũng đem lại một sự vinh dự xứng đáng cho cộng đồng toán học Pháp.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Từ hơn ba năm nay, tôi có cái may mắn hiếm có được làm việc ở Viện nghiên cứu cao cấp ở Princeton. Viên được thành lập từ những năm 30 và là nơi Albert Einstein làm việc hơn 40 năm. Ngoài một số nhỏ những giáo sư cơ hữu của viện, hầu hết là những nhà toán học, vật lý hàng đầu của thế giới, viên thường xuyên có rất nhiều những nhà khoa học trẻ đến làm việc trong thời gian từ một đến hai năm, sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ. Ngoài nguồn hỗ trợ tài chính rất lớn từ chính phủ Mỹ cũng như từ các tổ chức tư nhân và các cá nhân, cách tổ chức công việc hiệu quả của Viện là cái rất đáng để học tập. Sau 50 năm, tức là một khoảng thời gian không lớn so với lịch sử khoa học, Viện đã trở thành lá cờ đầu của toán học và vật lý lý thuyết và đã đóng một vai trò rất lớn cho sự hình thành của trường phái toán học Mỹ mà vào thời điểm hiện tại, vẫn đóng vai trò số một không thể bàn cãi. Nếu không có thời gian làm việc ở Princeton, rất có thể công trình Bổ đề cơ bản sẽ chưa hoàn thành vào thời điểm này. Ngoài ra, nhờ vào sự tiếp xúc với những nhà toán học thiên tài như Langlands, tôi đã xác định được rõ ràng chương trình nghiên cứu tiếp theo của mình sau khi Bổ đề cơ bản đã hoàn thành.</div><div style="text-align: justify;">Từ trải nghiệm ở Pháp cũng như ở Mỹ, tôi hiểu ra rằng môi trường học thuật lành mạnh là điều kiện tiên quyết cho sự trưởng thành của các nhà khoa học trẻ. Môi trường khoa học lành mạnh chính là nơi học thuật và đạo đức trong học thuật được luôn được xếp ở vị trí đầu tiên, cùng với sự bình đẳng giữa các nhà khoa học, không phân biệt già trẻ, cũng như sự tự do tuyệt đối trong nghiên cứu khoa học.</div><div style="text-align: justify;">Cuối cùng, tôi xin nhắc đến một con người, một nhà khoa học, và một người bạn lớn của Việt Nam. Khi còn là sinh viên Henri Van Regemorter đã tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên Pháp phản đối chính sách thực dân ở Đông dương. Sau này, ông đa qua Việt Nam nhiều lần và trở thành một người bạn thân thiết của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng và đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông là người sáng lập ra Ủy ban hợp tác khoa học kỹ thuật Pháp Việt. Tôi có cái may mắn được sống trong ngôi nhà của ông nhiều năm và học được rất nhiều từ con người của ông. Ông không bao giờ nói dài như tôi đang làm, nhưng qua việc làm của ông, tôi hiểu rằng, nhiệm cụ của nhà khoa học không chỉ đơn thuần là làm chuyên môn, mà còn bao gồm việc đem đến cho những người trẻ tuổi, không kể đến nguồn gốc xuất sứ, không nhất thiết là người thân, cái cơ hội để tiềm năng của họ được phát triển, trong khoa học và rộng hơn là trong cuộc sống. Đấy là điều tôi muốn nói với những nhà khoa học Việt nam, những nhà quản lý, và với tất cả những người làm cha, làm mẹ.</div><div style="text-align: justify;">Hiện trạng khoa học và giáo dục của chúng ta chưa được như chúng ta mong đợi, nhưng ý thức của mỗi người và sự cố gắng của nhà nước, của chính phủ qua những quyết sách đúng đắn và dũng cảm, chính là tiền đề cho một sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực.</div><div style="text-align: justify;">Cuối cùng, xin chúc các bạn trẻ đang lắng nghe tôi có đủ niềm tin và sự say mê để đi hết con đường mà mình đã chọn.</div><div style="text-align: justify;">Xin cảm ơn sự chú ý của quí vị. </div><div style="text-align: right;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><strong>GS Ngô Bảo Châu</strong> </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-91070652565405690652010-10-07T07:26:00.000-07:002010-10-07T07:28:07.851-07:0043 NHÀ TƯ TƯỞNG TÂY PHƯƠNG TIÊU BIỂU CỦA NHÂN LOẠI<div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjAk0FlnfelZuY4JJYP_dAok0oUqybn-hLrf02PAZNoFLqaYPKhfMEKgrc2GgHFWjm8UkUoxkSQK4MhL5p-T_n_-K8DrxNxzKjJqacMi3bUDrYet4s20zTWjwZGwQE4F1ATWqRpIFczk7E/s1600/9.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="203" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjAk0FlnfelZuY4JJYP_dAok0oUqybn-hLrf02PAZNoFLqaYPKhfMEKgrc2GgHFWjm8UkUoxkSQK4MhL5p-T_n_-K8DrxNxzKjJqacMi3bUDrYet4s20zTWjwZGwQE4F1ATWqRpIFczk7E/s320/9.jpg" width="320" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><br />
</div><br />
1. SOCRATES (469-399 TR. CN) </div><div style="text-align: justify;"><br />
Triết gia Hy Lạp. Triết học của ông còn lưu giữ được thông qua trước tác của các học trò ông, đặc biệt là Plato. Ông sử dụng một phương pháp sau này trở nên nổi tiếng là “phương pháp Socrates” để tra vấn những tin tưởng truyền thống về đạo đức, công bằng, và những ý niệm xã hội khác. Bị buộc tội vô thần và làm suy đồi giới trẻ, ông phải nhận bản án tử hình. </div><div style="text-align: justify;">Plato đã tôn vinh bậc thầy của mình bằng cách thể hiện qua văn chương và sự kế tục công trình khó khăn của Socrates trong một loạt bài đối thoại triết học, mà trong đó Socrates hiếm khi phù hợp với ông.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">2. PLATO (428 tr. CN? - 347 tr. CN) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Hy Lạp. Học trò của socrates, và là thầy dạy của Aristotle, ông sáng lập Hàn Lâm Viện Athens. Các tác phẩm của ông, được viết dưới hình thức đối thoại, có thể kể Phaedo, Symposium, và Republic. Tượng của Plato được coi như cha đẻ của nền triết học phương Tây không chỉ vì chúng ta may mắn giữ lại được toàn bộ tác phẩm của ông (thường đối với một triết gia cổ đại) nhưng còn do sự phong phú, sự tinh tế, sự phóng khoáng, và vẻ đẹp biệt lệ trong các tác phẩm của ông</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">3. ARISTOTLE (384 BC - 322 BC BC) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và nhà khoa học Hy Lạp. Ông là một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất đến triết học Tây phương.</div><div style="text-align: justify;">Aristotle lần đầu đến thụ giáo Plato lúc còn là một cậu thiếu niên, và ba mươi năm sau đã khai sinh một trường phái mới ở Athene, Lyceum, ở đó ông dạy và viết về mọi đề tài: triết học, lôgic, chính trị, tu từ học, văn chương, và các khoa học. Ông còn được coi là người có thẩm quyền về các chủ đề này 1.500 năm sau.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">4. SAINT AUGUSTINE (354-430 430) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Giáo sĩ và nhà thần học La Mã. Kiệt tác của ông, Vương quốc của Chúa, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Thiên Chúa giáo.</div><div style="text-align: justify;">Augustine là nhân vật hàng đầu của giáo hội Bắc Phi đầu thế kỷ V. Ông triển khai triết học Kitô giáo theo học thuyết của Plato theo cách suy tư riêng.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">5. SAINT THOMAS AQUINAS (1225? - 1274) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia kinh viện Ý. Nhà thần học chính yếu của Cơ Đốc giáo La Mã.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">6. MIGUEL DE CARVANTES (1547 - 1616) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Tiểu thuyết gia và kịch tác gia người Tây Ban Nha. Tiểu thuyết Don Quixote (1605 - 1615) của ông ảnh hưởng rất to lớn đến sự phát triển của tiểu thuyết</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">7. GALILEO (1564 - 1642) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà vật lý và nhà thiên văn người Ý. Là một trong những người đặt nền tảng cho cuộc cách mạng khoa học ở châu Âu, những đóng góp chủ yếu của ông bao gồm việc áp dụng kính viễn vọng vào ngành thiên văn và việc khám phá ra quy luật của các vật thể rơi và những chuyển động của đạn.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">8. WILLIAM SHAKESPEARE (1564 - 1616) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà thơ và nhà soạn kịch người Anh. Ông được thừa nhận rộng rãi là một trong những nhà soạn bi kịch vĩ đại nhất trong khối nói tiếng Anh. Các tác phẩm chính: Romeo và Juliet (1592), Hamlet (1601?), Macbeth (1606), Vua Lear (1607)</div><div style="text-align: justify;"><br />
9. RENẾ DESCARTES (1596-1650) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và nhà toán học Pháp. Ông thường được coi là cha đẻ của triết học hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng Phương pháp luận (1637) của ông giới thiệu kỹ thuật truy tầm triết lý. Công trình về hình học giải tích của ông dẫn đến hệ thống tọa độ mang tên Descartes. Hope đã tôn vinh ông “nếu chỉ chuyên tâm về hình học thì ông đã là một nhà hình học giỏi nhất thế giới rồi”. Tuy nhiên quan điểm thống nhất toán học và các ngành khoa học khác của Descartes đã gợi hứng cho kế hoạch triết học của ông.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">10. JOHN MILTON (1608-1674) </div><div style="text-align: justify;"><br />
Nhà thơ Anh. Thơ của ông được xếp vào loại tài sản quí báu nhất của văn học Anh, trong đó có kiệt tác Thiên đàng đã mất (1667) thuật lại câu chuyện Adam và Eve bị đuổi khỏi vườn địa đàng</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">11. BARUCH SPINOZA (1632 - 1677) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Hà Lan. Chống lại Do Thái giáo là nền tảng văn hóa của mình, ông triển khai một thứ triết học kết hợp những yếu tố duy lý và phiếm thần. Tác phẩm chủ yếu của ông là Đạo đức học (1674) Tác phẩm tuyệt vời nhất của Bauruch Spinoza, Đạo đức học, thực ra là một thiên khảo luận siêu hình có hệ thống xây dựng các định lý dựa trên các tiền đề xuất phát từ các định nghĩa. Sự phiêu lưu tri thức của ông đã đưa ông đến việc bị công đoàn chính thống giáo Do Thái ở Amsterdam từ khước</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">12. ISAAC NEWTON (1642 - 1727) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Khoa học gia người Anh. Ông khám phá ra luật hấp dẫn, sáng nghĩ ra phép tính, và diễn đạt luật chuyển động. Ông nhận thấy rằng ánh sáng trắng là sự pha trộn của các thứ ánh sáng có màu. Tác phẩm chính: Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (1687) và Quang học (1704)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">13. VOLTAIRE (1694 - 1778)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và nhà văn Pháp. Là khuôn mặt hàng đầu trong phong trào Ánh sáng, ông viết nhiều tác phẩm văn học thể hiện tinh thần cực đoan và những ý tưởng tôn giáo của mình. Các tác phẩm chính có thể kể: Những bức thư triết học (1734), Candide (1759), Tự điển triết học (1764)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">14. DAVID HUME (1711 - 1776)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và sử gia người Xcốt-len. Các tác phẩm chính: Luận về Bản tính con người (1739 - 1740) và Khảo về tri thức con người 360</div><div style="text-align: justify;"><br />
15. JEAN JACQUES ROUSSEAU (1712 - 1778)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và nhà văn Pháp. Ông là một trong những tác giả vĩ đại nhất của Thời kỳ Ánh sáng. Các tác phẩm của ông có thể kể Xã Ước (1762), Nàng Heloise mới (1761), và Émile (1762). Jean Jacques Rousseau, con người hoang dại của nền văn học Pháp, người báo hiệu chủ nghĩa lãng mạn; yêu cầu luận chiến của ông về sự hợp pháp hóa phổ thông của chính phủ đã gây cảm hứng cho các tư tưởng cách mạng năm 1789</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">16. ADAM SMITH (1723 - 1790)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và nhà kinh tế học người Anh. Ông trình bày học thuyết mậu dịch tự do của mình trong tác phẩm Sự phồn vinh của các quốc gia (1776)</div><div style="text-align: justify;"><br />
17. IMMANUEL KANT (1724-1804 1804)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Đức. Ông là người gieo ảnh hưởng sâu xa lên triết học Tây phương qua hai tác phẩm chủ yếu Phê pháp lý trí thuần túy và Phê phán lý trí thực hành Immanue Kant là đầu nguồn xuất phát của dòng triết học chính của Âu châu lục địa tuôn chảy trong thế kỷ XIX và XX, ảnh hưởng của ông vẫn lan tràn một cách đều đặn trong cả triết học dùng ngôn ngữ Anh nữa, nhất là trong siêu hình và đạo đức học.</div><div style="text-align: justify;"><br />
18. GEORGE WASHINGTON (1732 - 1799)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Tổng tư lệnh quân đội Mỹ trong cuộc Cách mạng 1775 - 1783</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">19. THOMAS JEFFERSON (1743-1826)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Tổng thống thứ ba của nước Mỹ. Ông là tác giả Tuyên ngôn độc lập. Tổng thống T.Jefferson (1801-1809) là nhà lãnh đạo Mỹ đầu tiên và có lẽ là duy nhất tản bộ đến nơi diễn ra lễ nhậm chức. Ông cũng là tổng thống đầu tiên nhậm chức tại tòa nhà Quốc hội ở Washington D.C. Bài phát biểu trong lễ nhậm chức của Jefferson đã trở thành bài diễn văn đầu tiên của Tổng thống Mỹ được một tờ báo đăng tải nguyên văn ngay vào buổi sáng diễn ra lễ nhậm chức. Cũng lần đầu tiên, tại lễ nhậm chức của ông, ban nhạc Marine tham gia biểu diễn, từ đó tạo tiền lệ có ban nhạc tham dự lễ nhậm chức của các tổng thống Mỹ.</div><div style="text-align: justify;"><br />
20. JOHANN WOLFGANG VON GOETHE (1749 - 1832)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà văn và nhà khoa học Đức. Là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn của văn học châu Âu, ông viết rất nhiều từ thơ, tiểu thuyết, kịch đến tiểu luận và thư từ. Kiệt tác của ông là bi kịch Faust (1808 - 1832). Ông cũng là tác giả của tiểu thuyết Nỗi đau của chàng Werther (1774).</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">21. GEORG WILHEM FRIEDRICH HEGEL (1770-1831)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Đức. Hệ thống siêu hình học duy tâm của ông tạo nên một ảnh hưởng to lớn đối với tư tưởng châu Âu thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông có thể kể: Hiện tượng luận về tinh thần, Tự điển bách khoa các khoa học về triết học, Bài giảng về triết học lịch sử </div><div style="text-align: justify;">G.W.F. Hegel, người mà phần lớn các triết gia nói tiếng Anh không mấy thân thiện do hệ thống tư tưởng của ông khó hiểu và nhiều tham vọng, nhưng nó không đánh mất ảnh hưởng của ông trong các dòng tư tưởng của triết học thế kỷ XX.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">22. ARTHUR SCHOPENHAUER (1788-1860)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Đức. Triết học vô thần, bi quan sâu sắc của ông được trình bày cặn kẽ trong Thế giới như ý chí và Biểu tượng (1819). </div><div style="text-align: justify;">Arthur Schopenhauer mà sự nghiệp hàn lâm của ông bị suy sụp ở đại học Berlin khi ông thiếu khôn ngoan chọn để trình bày các bài thuyết trình đồng thời với Hegel; sự oán giận như một kết quả, và nhiều thứ khác, được diễn đạt trong các tác phẩm của ông. Trong công trình của ông, các truyền thống tôn giáo phương Đông lần đầu tiên tạo được ảnh hưởng đáng kể trên triết học Tây phương.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">23. JOHN STUART MILL (1806 - 1873)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và nhà kinh tế học người Anh. Các tác phẩm quan trọng nhất của ông có thể kể: Một hệ thống Logic (1843) và Luật về tự do (1859).</div><div style="text-align: justify;">John Stuart Mill, nổi tiếng trước tiên vì hệ thống lôgic, sau đó đến triết học đạo đức. Ông đã dồn phần lớn nỗ lực vào việc cải cách chính trị sau cái chết của vợ ông, bà Harriet, người đã chia sẻ công việc của ông và có ảnh hưởng lớn đối với ông</div><div style="text-align: justify;"><br />
24. ABRAHAM LINCOLN (1809 - 1865)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ. Ông lãnh đạo Liên bang chiến thắng trong Nội chiến và xóa bỏ chế độ nô lệ. Ông bị ám sát trong khi đang xem kịch tại nhà hát.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">25. CHARLES DARWIN (1809 -1882)</div><div style="text-align: justify;"><br />
Charle Robert Darwin, nhà sinh vật học lỗi lạc nhất nước Anh thế kỷ XIX, sinh ngày 12-2-1809. Nǎm 1859, ông xuất bản tác phẩm có giá trị nhất của mình là "Nguồn gốc các loài, Con đường chọn lọc tự nhiên". Cuốn sách thực sự là một cuộc Cách mạng trong ngành khoa học tự nhiên cho rằng vạn vật đều biến đổi. Nǎm 1868 ông xuất bản cuốn "Sự biến đổi của động vật và thực vật trong chǎn nuôi và trồng trọt". Sau đó ông mở rộng học thuyết tiến hoá với tác phẩm "Nguồn gốc loài người và sự chọn lọc giới tính".<br />
Ông qua đời ngày 19-4-1882.</div><div style="text-align: justify;"><br />
26. SOREN KIERKEGAARD (1813-1855)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Đan Mạch. Triết học tôn giáo của ông đề cập đến hiện sinh cá nhân, sự lựa chọn, và sự cam kết; nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến thần học và các triết gia hiện sinh. Các tác phẩm chính của ông: The Concept of Irony (1841) và Either/Or (1843)</div><div style="text-align: justify;">Soren Kierkegaard cố tình tạo ra ấn tượng kháng - kinh viện (chứng cứ là những hình thức, những danh hiệu, và những bút hiệu khác thường ở các tác phẩm của ông) để bảo vệ mạnh mẽ tự do của con người chống lại các hệ thống, các quy tắc, và những gì là duy lý hóa.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">27. HENRY DAVID THOREAU (1817 - 1862)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và tiểu luận gia người Mỹ. Các tác phẩm chính: Bất phục tùng dân sự (1849) và Walden (1854), trong đó ông mô tả một đời sống bình dị và gần gũi với tự nhiên</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">28. KARL MARX (1818 - 1883)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Đức. Các tác phẩm của ông, đặc biệt là Tuyên ngôn Cộng sản (1848) và Tư bản luận (1867, 1885, 1894), là nền tảng của Chủ nghĩa cộng sản.</div><div style="text-align: justify;">Karl Marx thừa nhận học thuyết của Hegel về quy trình phát triển lịch sử, nhưng cho từng vật chất hơn là tinh thần vai trò quan trọng trong quy trình này. Vì thế triết lý của ông đi tới chỗ được mô tả là chủ nghĩa duy vật biện chứng, lịch sử, hay khoa học; đối với ông, sản xuất là chức năng quyết định vật chất của con người.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">29. WALT WHITMAN (1819 - 1892)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà thơ và nhà tiểu luận người Mỹ. Ông nổi tiếng với thơ tự do mà điển hình là tuyển tập thơ mang tính cách tân về thi pháp Lá Cỏ (1855 - 1889)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">30. FRIEDRICH ENGELS (1820-1895) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Friedrich Engels sinh ngày 28-11-1820 tại nước Đức và qua đời nǎm 1895.<br />
Engels là nhà cách mạng vĩ đại, nhà triết học, nhà kinh tế học, nhà sử học, nhà khoa học tự nhiên và khoa học quân sự, nhà vǎn, nhà ngôn ngữ học.</div><div style="text-align: justify;">Ông là người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân. Cùng với Karl Marx, Engels đã xây dựng lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học và đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân. Ông là đồng tác giả Tuyên ngôn Cộng sản (1848) với Karl Marx đồng thời là người hỗ trợ tài chính cho Karl Marx Ông sống chủ yếu ở Anh. Ông là người sáng lập Quốc tế thứ hai.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">31. FYODOR DOSTOYEVSKY (1821 - 1881)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Tiểu thuyết gia người Nga. Tác phẩm chính: Tội ác và Hình phạt (1866) và Anh em nhà Karamazov (1879 - 1880)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">32. LEV TOLSTOY (1828 -1910)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà văn Nga. Ông là tác giả bộ tiểu thuyết sử thi Chiến tranh và Hòa bình (1865 - 1869) và Anna Karenina (1875 - 1877). Là nhà tư tưởng xã hội sâu sắc và nhà đạo đức, ông bị trục xuất ra khỏi Chính Thống Giáo Nga vì những quan điểm cực đoan về quyền lực của giáo hội</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">33. FRIEDRICH NIETZACHE (1844 - 1900)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia Đức. Tác giả của kiệt tác Zarathustra đã nói như thế (1883 - 1885), một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 19. Ông xây dựng một nền triết học dựa trên ý chí vươn tới quyền lực và chống đối tôn giáo.</div><div style="text-align: justify;">Friedrich Nietzsche nổi tiếng vì đã phá tín ngưỡng nhưng uy tín quốc tế đến với ông quá trễ. Ảnh hưởng không thể tiên đoán của ông đã chảy qua thời hiện đại và cả hậu đại</div><div style="text-align: justify;"><br />
34. Arthur-Rimbaud (1854 - 1891)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà thơ Pháp. Tác phẩm chính: Một mùa địa ngục và Những bức tranh tô màu (1873)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
35. SIGMUND FREUD (1856 - 1939)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Bác sĩ người Áo, cha đẻ của phân tâm học. Ông khai triển nhiều lý thuyết chủ yếu đối với phân tâm học, tâm lý học về tính dục của con người, và sự minh giải giấc mơ. Các tác phẩm của ông có kể Minh giải giấc mơ (1899) và Cấm kỵ và Vật tổ (1913)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">36. VLADIMIR ILITS LENIN (1870 -1924) </div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Vlađimia Ilich Lênin - sinh ngày 22-4-1870 tại thành phố Ômxcơ (nay là thành phố Ulianôpxcơ thuộc Cộng hoà Liên bang Nga). </div><div style="text-align: justify;">Ông là người vận dụng thành công những lý luận của Các Mác - Ǎngghen và xây dựng thực tiễn để trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Nước Nga Xô Viết do Lênin sáng lập và lãnh đạo là đất nước đầu tiên tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những nền tảng của lý luận Mác - Lênin đã được loài người tiến bộ, yêu hoà bình và tiếp thu và vận dụng vào điều kiện cách mạng của mỗi nước. Cuộc đời và sự nghiệp của Lênin đã cống hiến to lớn cho bước phát triển của xã hội.</div><div style="text-align: justify;"><br />
37. BERTRAND RUSSELL (1872-1970)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia và nhà toán học, nhà hoạt động cho hòa bình người Anh. Ông viết nhiều tác phẩm triết học có ảnh hưởng lớn. Ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1950.</div><div style="text-align: justify;">Bertrand Russell vượt lên những ảnh hưởng liên tục của Bradley, Moore, Frege, và Wittgenstein để nổi lên thành một triết gia Anh có nhiều độc giả nhất của thế kỷ XX.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">38. ALBERT EINSTEIN (1879-1955)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Albert Einstein sinh ngày 14-3-1879 và qua đời ngày 18-4-1955.<br />
Ông là nhà bác học vĩ đại bậc nhất của thế kỷ XIX, nhà vật lý lý thuyết người Đức, một trong người sáng lập vật lý học hiện đại.<br />
Einstein là tác giả những công trình cơ sở về thuyết lượng tử của ánh sáng: Đưa ra khái niệm về phôton (nǎm 1905), thiết lập các định luật quang điện, định luật cơ bản của quang hoá. Từ nǎm 1917, ông đã tiên đoán bức xạ cảm ứng là cơ sở của kỹ thuật made và lade ngày nay.<br />
Nguyên tố hoá học 99 mang tên Albert Einstein. Nǎm 1921 ông được nhận giải Nobel về Vật lý.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">39. WILLIAM FAULKNER (1897-1962)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà văn Mỹ. Ông được đánh giá là một trong những tiểu thuyết gia Mỹ vĩ đại nhất vì những tác phẩm viết theo kỹ thuật giòng - ý - thức về đời sống ở miền Nam nước Mỹ, trong đó có Âm thanh và Cuồng nộ (1929). Ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1949.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">40. ERNEST HEMINGWAY (1899-1961)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Nhà văn Mỹ. Một trong những nhà văn hàng đầu của thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông có thể kể: Giã từ vũ khí (1929) và Chuông nguyện hồn ai (1940). Ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1954.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">41. JEAN PAUL SARTRE (1905-1980)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Triết gia, kịch tác gia, và tiểu thuyết gia người Pháp. Là người chủ xướng thuyết hiện sinh, ông viết tác phẩm Being and Nothingness (1943) và tiểu thuyết Buồn nôn (1938). Jean Paul Sartre đã trở thành nguyên mẫu của trí thức Pháp: sâu sắc và khó hiểu, chống lại quy ước, dấn thân vào chính trị, với vai trò được nhìn nhận như nhà phê bình văn hóa và xã hội, trong quá cà phê, với điếu thuốc trên môi.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">42. ALBERT CAMUS (1913 - 1960)</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Tiểu thuyết gia, tiểu luận gia, và nhà soạn kịch người Pháp, sinh tại Algeria. Các tác phẩm của ông có thể kể: Kẻ xa lạ (1942) và Dịch hạch (1947). Ông được trao giải Nobel về văn chương năm 1957.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">43. ARTHUR MILLER (1915 - )</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Kịch tác gia Mỹ. Ông đoạt giải Pulitzer với vở bi kịch Cái chết của người chào hàng (1949). Người vợ thứ hai của ông là diễn viên điện ảnh Marylin Monroe.</div><div style="text-align: justify;"></div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-77004753310411354142010-10-07T07:15:00.000-07:002010-10-07T07:15:39.807-07:00DANH NHÂN GIÁO DỤC NGUYỄN TRÃI<div align="right" style="text-align: justify;"></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhcSCtGK3EFVZ2EtrkoVIg4poC2nD1ntkHKGC1P3r2wCoVar1QTGVjv1DJT53QnULhav-w5bHXooZv60CfUE6hDQnttFH7Azy_wsOL_4dR3Bu2aq6Iqb5XZyNrvBGNygL-qhbbWrdQl-uU/s1600/8.bmp" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="192" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhcSCtGK3EFVZ2EtrkoVIg4poC2nD1ntkHKGC1P3r2wCoVar1QTGVjv1DJT53QnULhav-w5bHXooZv60CfUE6hDQnttFH7Azy_wsOL_4dR3Bu2aq6Iqb5XZyNrvBGNygL-qhbbWrdQl-uU/s320/8.bmp" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Nhân dịp 568 năm ngày giỗ Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi (16 tháng Tám AL), Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Ban quản trị Website xin đăng bài “Phác họa chân dung Danh nhân giáo dục Nguyễn Trãi” của tác giả Nguyễn Bá Cường như để kính cẩn dâng lên Người một nén tâm hương.</em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Sự nghiệp tư tưởng của Nguyễn Trãi (1380 - 1442) có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Ông là người đã đặt cơ sở cho tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng triều đại mới - Lê sơ - triều đại được coi là cực thịnh của chế độ phong kiến ở Việt Nam. Ông có nhiều cống hiến hết sức to lớn trên các lĩnh vực: chính trị, quân sự, triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, ngoại giao, văn học, ngôn ngữ, nghệ thuật,... Trong hệ thống tư tưởng của ông, vấn đề giải phóng con người, giáo dục con người là vấn đề xuyên suốt và được quan tâm trước hết. </div><div style="text-align: justify;">Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa thế giới, “khí phách và tinh hoa của dân tộc Việt Nam” đã được làm sáng tỏ về cơ bản trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành. Trong phạm vi bài viết này, tác giả nhấn mạnh đến sự nghiệp giáo dục của ông. Những dữ kiện được nêu lên sau đây cho thấy cuộc đời Nguyễn Trãi có sự gắn bó liên tục với giáo dục. </div><div style="text-align: justify;">Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học và khoa cử, “đã có sẵn thanh danh vị vọng”: cha là Nguyễn Ứng Long (còn có tên là Phi Khanh) vốn là nhà Nho nghèo dạy học, thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm 1374, mẹ là Trần Thị Thái - con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Sáu tuổi, Nguyễn Trãi đã ham đọc sách (“Lục tuế nhi đồng phả ái thư”), tiếp nối truyền thống gia đình (“Một cửa thi thư dõi nghiệp nhà”[1]). </div><div style="text-align: justify;">Tuổi trẻ Nguyễn Trãi đã nức tiếng thơm về học vấn trong giới nhà Nho (Thanh niên phương dự ái nho lâm). Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: Ông “học rộng văn hay”, “tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh, sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả”. Ở tuổi 21, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh trong khoa thi đầu tiên do nhà Hồ tổ chức (1400), làm quan với chức Chính chưởng Ngự sử đài (dưới thời Hồ Hán Thương, 1401 - 1407). </div><div style="text-align: justify;">Cuối năm 1406, nhà Minh xâm lược Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam khi đó). Cha con Nguyễn Trãi đã dứt khoát đứng về phía nhà Hồ để kháng chiến chống quân Minh. Tháng 4 năm 1407, nhà Hồ thất bại, nhiều triều thần bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, trong đó có cha ông - Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi bị giặc Minh bắt và giam lỏng ở phía Nam thành Đông Quan (nay là Hà Nội). Ông sống và dạy học trong khoảng mười năm tại ngôi nhà của người cha khi còn làm quan dưới triều Hồ. </div><div style="text-align: justify;">Trong thời gian loạn lạc này, họ hàng thân thích ly tán, Nguyễn Trãi nhận thấy chuyện công danh chỉ là giấc mộng. Ông nghĩ mình giống như Vương Thức (người đời Hán làm việc dạy học) và ông cũng tự học theo gương Quản Ninh (người đời Ngụy thời Tam Quốc, lánh nạn dạy dân về thi thư, lễ nghĩa) chứ nhất định không ra làm quan cho giặc. Bởi thế, nỗi niềm mong muốn của ông chính là nơi thư phòng. Ông quyết tâm vượt lên cảnh nghèo khó (và mất tự do) để học tập, giảng dạy: “Mười năm đọc sách, nghèo đến tận xương, Mâm cơm đến rau mục túc cũng không có, chỗ ngồi không có đệm”. Sau này, khi gặp lại bạn cũ, Nguyễn Trãi nhớ lại thời kỳ mười năm từng dạy học (Ký tằng giảng học thập dư niên). Cũng theo nhiều nhà nghiên cứu, ông đã từng có nhiều thời điểm dạy học. Chẳng hạn: GS.TSKH Dương Thiệu Tống cho rằng, Nguyễn Trãi có ít nhất bốn thời kỳ mở trường dạy học: Thời kỳ thứ nhất (trước 1400) khi chưa thi đỗ, tại Nhị Khê; thời kỳ thứ hai trong khoảng 10 năm lưu lạc (1407 - 1416); thời kỳ thứ ba sau khi gặp Lê Lợi và trước khi khởi nghĩa (1416 - 1418); và thời kỳ thứ tư, trước khi gặp thảm họa vì vụ án Lệ Chi Viên (1442)[2]. Theo GS Bùi Văn Nguyên: “Chắc chắn Nguyễn Trãi có vài lần trực tiếp dạy học, còn như việc tham gia chấm thi, đọc quyển,v.v,.. có thể nhiều lần, kể từ khoa Minh Kinh năm Bính Ngọ (1426) đến khoa thi Hội chính quy năm Nhâm Tuất (1442)[3].</div><div style="text-align: justify;">Không chỉ hành đạo thông qua giáo dục, Nguyễn Trãi hăng hái thực hiện bản lĩnh của một nhà Nho hành động: “chí những muốn việc cổ nhân đã muốn, để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo”. Khoảng 1416 - 1418, ông tìm cách vào Thanh Hóa dâng “Bình Ngô sách” lên thủ lĩnh cuộc kháng chiến là Lê Lợi và chính thức tham gia phong trào khởi nghĩa Lam Sơn với mục đích “lo vận nước”, “cứu lê dân”, “rửa nhục ngàn thu”, để xây dựng “xã tắc vững bền”, “non sông đổi mới” và để “mở nền thái bình muôn thuở”. </div><div style="text-align: justify;">Cuộc kháng chiến chống quân Minh toàn thắng, với vai trò “làm công thần mở nước thứ nhất”, Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ cho theo họ Lê (vì thế còn gọi là Lê Trãi) và phong tước Quan phục hầu, được cử giữ các chức quan: Hàn lâm viện Thừa chỉ, Nhập nội Hành khiển, Lại bộ Thượng thư,… Ông đã giúp vua xây dựng đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao và tổ chức chế độ giáo dục, thi cử. Nhà vua giao cho ông soạn Chiếu cầu hiền tài, Chiếu ban “Hậu tự huấn” để răn bảo Thái tử,... Tuy vậy, dưới thời Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi bị nghi ngờ về lòng trung thành nên khiến ông bị bắt giam, sau không đủ chứng cứ rồi lại được tha (năm 1429). Kể từ đó, ông không được trọng dụng mà chỉ được giao cho san định lễ nhạc, sử sách (như hiệu đính nhã nhạc, định quy chế mũ áo...). Thông qua những việc này mà Nguyễn Trãi thực hiện một số chủ trương cải cách văn hóa, giáo dục. </div><div style="text-align: justify;">Sau khi vua Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần gièm pha nên ông đã xin về nghỉ ở Côn Sơn. Năm 1434, ông được Lê Thái Tông triệu ra làm quan và tin dùng, cử vào điện Kinh Diên dạy vua học tập, soạn sách Dư địa chí để giáo dục về địa lí, phong tục, soạn lễ nhạc cho triều đình và dạy hát múa trong cung. Kết quả giáo dục của Nguyễn Trãi được Lê Quý Đôn đánh giá là đã “giúp nên đức cho vua”.</div><div style="text-align: justify;">Khoảng cuối năm 1437, do mâu thuẫn giữa các võ quan và văn quan, giữa các phe phái võ quan, sự lộng hành của các hoạn quan, Nguyễn Trãi đã đấu tranh chống lại bọn chúng nhưng thân cô thế cô nên ông phải xin lui về ẩn dật tại Côn Sơn. Ông vẫn miệt mài hành đạo thông qua giáo dục: “Dạy láng giềng mấy sĩ nho”. Ông tự hào noi theo con đường của nhà Nho kẻ sĩ mà gia đình truyền lại với sự thanh bạch, đồng thời vui mừng vì còn giữ được nghiệp cũ để truyền lại nghiệp Nho cho con cháu trong nhà. Ông quan niệm đó mới là vốn quý chứ đâu cần gì phải vàng bạc đầy rương?. </div><div style="text-align: justify;">Năm 1439, vua Lê Thái Tông lại mời Nguyễn Trãi về tham dự triều chính, khôi phục quyền chức và được trọng dụng. Trong đó, đáng chú ý là ông được giao “kiêm Tam quán” - công việc về văn hóa, giáo dục. Ông coi việc đó là “điều Nho giả cực vinh” và thông qua chức ấy, ông có điều kiện để tổ chức giáo dục lòng tự hào về nền văn hiến của dân tộc và thực hiện trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ mai sau. Chính vì thế, mùa xuân năm Nhâm Tuất (1442), triều đình nhà Lê đã mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên, Nguyễn Trãi được cử làm "độc quyển" (người duyệt bài thi lần cuối cùng để trình lên nhà vua quyết định thứ hạng cao thấp), vua Lê Thái Tông thân hành ra đề sách vấn, lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa và Tiến sĩ. Kể từ khoa thi này, chế độ thi cử, tuyển chọn nhân tài thời Lê nói riêng và ở nước ta trong lịch sử nói chung được định hình về cơ bản nhờ công lao xây dựng nền móng của Nguyễn Trãi.</div><div style="text-align: justify;">Do uy tín của Nguyễn Trãi từ trước (“nói tất nghe mà kế tất theo”) và được trọng dụng trở lại (“công đã thành mà danh đã toại”) khiến ông phải đối mặt với một sự thật: “mua ghen ghét, chuốc gièm pha, chợt nhặng xanh nhơ vết”. Ông rút ra kết luận: Mới biết rằng, người thẳng ngay thì khó hợp (Tín tri lạc lạc giả nan hợp), “để trong trắng thì bẩn dễ dây” (Chung linh hạo hạo giả dị ô). Dù ông “đầu bạc lòng son”, mong cho “thanh thiên bạch nhật, lòng trung được chút tỏ ra” nhưng rồi vẫn đành “phải ngậm cười dưới đất”. Thảm án oan Lệ Chi Viên do bàn tay tạo dựng của những kẻ ghen ghét đố kỵ với nhân cách và tài năng của ông đã khiến cho sự nghiệp chính trị và giáo dục của bậc hiền tài, vị khai quốc công thần nhà Lê dừng lại với kết cục tru di ba họ vào mùa thu năm 1442. </div><div style="text-align: justify;">Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, sau đó, các tác phẩm của ông được sưu tầm và lưu truyền. Nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh (1980), Nguyễn Trãi được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới và tổ chức các hoạt động kỷ niệm ở nhiều nước trên thế giới, trong đó ở Việt Nam tổ chức trọng thể cấp Nhà nước.</div><div style="text-align: justify;">Nguyễn Trãi đã để lại tấm gương về sự sáng tạo không mệt mỏi trên tất cả các lĩnh vực tư tưởng, đặc biệt là phương diện văn hóa - giáo dục. Hầu hết các tác phẩm mà ông sáng tác đều có giá trị giáo dục to lớn: “Bình Ngô sách” - chiến lược giải phóng dân tộc nhằm giáo dục và định hướng về đường lối đánh giặc, cứu nước; “Quân trung từ mệnh tập” có tác dụng giáo dục tư tưởng độc lập dân tộc, đưa con người trở về chính nghĩa, tạo dựng niềm tin và mối quan hệ bang giao hữu hảo; “Bình Ngô đại cáo” - bản tuyên ngôn độc lập có tác dụng giáo dục ý thức tự hào dân tộc, truyền thống yêu nước tự cường, khẳng định chủ quyền lãnh thổ, văn hiến, lịch sử và biểu dương sức mạnh đoàn kết dân tộc, nêu cao vai trò của nhân tố con người, giáo dục tinh thần hòa bình, nhân đạo chủ nghĩa,…; “Dư địa chí” - cuốn sách địa lý toàn quốc đầu tiên có tác dụng giáo dục sự hiểu biết về vị trí địa lý, lãnh thổ, sản vật, tài nguyên vùng miền,… để từ đó tăng cường tình yêu nước, yêu con người Đại Việt, bảo vệ Tổ quốc và bản sắc văn hóa dân tộc; “Lam Sơn thực lục” - cuốn sách lịch sử nhằm giáo dục truyền thống lịch sử và phương pháp tư duy đấu tranh giải phóng dân tộc, dựng xây đất nước, đặt ra nhiều kỳ vọng (trách nhiệm) ở con cháu đời sau,... Nguyễn Trãi làm thơ Quốc âm nhằm giáo dục và bảo vệ nét đẹp đặc sắc về ngôn ngữ - một trong những thành tố cơ bản làm nên độc lập về văn hóa dân tộc. Việc ông tham gia soạn luật, định lễ nhạc, phong tục, trang phục,… đều nhằm giáo dục ý thức chấp hành kỷ cương, trật tự xã hội, nâng cao ý thức thẩm mỹ, nghệ thuật cho triều đình và dân chúng.</div><div style="text-align: justify;">Sự nghiệp giáo dục của Nguyễn Trãi được nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo nổi tiếng đương thời là Phan Phu Tiên làm thơ mừng “bậc danh nho giúp đời trị bình” và khái quát: Trẻ thì ham học, lớn lên thi hành đạo (đã học), sống đã tự mình biết giác ngộ trước rồi lo giác ngộ cho muôn người dân. Nguyễn Mộng Tuân (đỗ Thái học sinh cùng khoa thi với Nguyễn Trãi, làm quan dưới triều các vua đầu thời Lê sơ), trong thơ mừng Nguyễn Trãi có nhà mới nói rằng: Sách vở thì giàu nhưng của cải thì nghèo xơ cả bốn vách (Tứ bích gia bần phú lục kinh), đồng thời ca ngợi ông: Dựng nước và làm vẻ vang Tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông (“Kinh bang hoa quốc, cổ vô tiền”). Chính cuộc đời, sự nghiệp và nhân cách cao thượng của Nguyễn Trãi đã có giá trị giáo dục sâu rộng, lâu dài trong lịch sử dân tộc ta. Ông chẳng những “lưu dấu ấn đẹp đẽ trong lịch sử thời Lê cường thịnh về kinh tế, cường thịnh về giáo dục,v.v..” mà còn có tác dụng giáo dục lớp lớp thế hệ người Việt Nam hiện nay.</div><div style="text-align: justify;"><br />
Nguyễn Trãi là một nhà Nho Việt Nam tiêu biểu. Trong giáo dục, ông thấm nhuần Nho học nhưng không giáo điều, “hủ nho”. Nguyễn Trãi luôn luôn có ý thức và không ngừng vận dụng Nho học nói chung và lý luận giáo dục Nho học nói riêng vào đời sống thực tiễn xã hội nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Bởi thế, sau này, Chu Xán, sứ nhà Thanh sang Đại Việt vào năm Chính Hòa thứ 4 (1683) có nhiều thơ hay về Việt Nam dâng lên triều đình Trung Quốc, trong đó có lời tôn vinh Nguyễn Trãi là người nổi tiếng về kinh tế. Sử gia Phan Huy Chú cũng khẳng định Nguyễn Trãi có sự nghiệp “kinh bang tế thế”. Nguyễn Trãi đề cao vai trò quan trọng của giáo dục đối với việc đào tạo nhân tài, giữ gìn và phát huy đạo đức xã hội, thay đổi bản tính và hoàn thiện phẩm chất nhân cách con người, là con đường tạo ra những sức mạnh vật chất và những lực lượng tiến bộ thúc đẩy xã hội phát triển. Ông chú trọng giáo dục những phẩm chất cơ bản của đạo làm người, tập trung vào nhân nghĩa, trung cần,… và chính ông là một tấm gương sáng về đạo làm người với cốt cách dân tộc và tinh hoa nhân loại. Sự nghiệp của ông mãi mãi trường tồn cùng lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử văn hóa Thăng long - Hà Nội.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">--------------------------------------------------------------------------------</div><div style="text-align: justify;">[1] Từ đây trích dẫn thơ văn Nguyễn Trãi theo Nguyễn Trãi toàn tập (tân biên), 3 tập (in lần thứ hai), Mai Quốc Liên chủ biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn học, 2001.</div><div style="text-align: justify;">[2] Dương Thiệu Tống. Suy nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại. Nxb Trẻ, 2003, tr.211-219.</div><div style="text-align: justify;">[3] Bùi Văn Nguyên. Văn chương Nguyễn Trãi. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1984, tr.298</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-56139776790115191342010-10-07T07:08:00.000-07:002010-10-07T07:08:34.373-07:00QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ XÃ HỘI LÍ TƯỞNG<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJJsJGJP3NA6VM0vG6Z4dT37lyUn2-0VxFXLLyF6wMhSuye4PqMGDk-LoVlGAGgNuvi3Vzhjo4vwpo4kRbD33Cvj0_HSMZaikF1SIC4YoMghUEk6j-H71IoFj8gxQOtENtxW_1_l1SyBc/s1600/7.bmp" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="246" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJJsJGJP3NA6VM0vG6Z4dT37lyUn2-0VxFXLLyF6wMhSuye4PqMGDk-LoVlGAGgNuvi3Vzhjo4vwpo4kRbD33Cvj0_HSMZaikF1SIC4YoMghUEk6j-H71IoFj8gxQOtENtxW_1_l1SyBc/s320/7.bmp" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Giống như bất kỳ một học thuyết chính trị - xã hội nào khác, Nho giáo cũng đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng với tất cả những đặc điểm căn bản của nó và các biện pháp để tạo lập duy trì cái xã hội ấy. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo, có thể khẳng định rằng quan niệm của Nho giáo về mẫu hình của một xã hội lý tưởng...</em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Giống như bất kỳ một học thuyết chính trị - xã hội nào khác, Nho giáo cũng đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng với tất cả những đặc điểm căn bản của nó và các biện pháp để tạo lập duy trì cái xã hội ấy.</div><div style="text-align: justify;">Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo, có thể khẳng định rằng quan niệm của Nho giáo về mẫu hình của một xã hội lý tưởng, đặc điểm cơ bản của nó, cùng con đường và các giải pháp để xây dựng, duy trì cái xã hội ấy là dựa trên cơ sở mà các nhà Nho đã vạch ra và lý giải nhưng nguyên nhân dẫn tới tình trạng xã hội rối loạn, lộn xộn: "Vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình cảnh hỗn loạn như thế, dầu ta có lúa đầy kho, có chắc được ngồi yên mà ăn chăng?". Có thể và cần phải nghiên cứu, lý giải nội dung và thực chất quan niệm của Nho giáo về một xã hội lý tưởng thông qua việc phân tích những đặc trưng của cái xã hội đó. </div><div style="text-align: justify;">Thứ nhất, trước một xã hội rối loạn bởi chiến tranh, bởi những mâu thuẫn và xung đột giai cấp, với chức năng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, Nho giáo mong ước có được một xã hội ổn định, thái bình, đại đồng, mọi người đều sống hòa mục, thân ái, bình đẳng. Mơ ước về một xã hội như vậy, trong Luận ngữ, Khổng Tử nói: "Vua chư hầu có nước, quan đại phu có nhà, hai hạng ấy chẳng lo sợ cho nước nhà mình ít người, mà lo sợ rằng: tình hình và phép tắc chẳng được đồng đều, chẳng lo sợ cho nước mình nghèo khổ, mà lo sợ chẳng được an ninh. Là vì hễ đồng đều thì chẳng nghèo khổ, người hòa thì dân số không ít, có an ninh thì nước nhà không nghiêng ngả". Xã hội lý tưởng được các nhà Nho nêu lên còn là một xã hội mà ở đó, có vua thánh, tôi hiền, mọi cái đều là của chung, mọi người đều có quyền lợi, có sản nghiệp riêng và đều được chăm sóc. </div><div style="text-align: justify;">Trong thiên Lễ vận, sách Lễ ký, Khổng Tử nói: "Sự thực hiện của đạo lớn là, thiên hạ là của chung, tuyển chọn người hiền và cử người tài năng, nói điều tín và tu sửa hòa mục. Cho nên người ta không chỉ tôn kính cha mẹ mình, không chỉ thương yêu con cái mình, còn khiến cho người già được sống trọn đời, người trai tráng được sử dụng, trẻ thơ được lớn lên, người không vợ, người không chồng, trẻ mồ côi, người không con người tàn tật, tất cả đều được chăm sóc".</div><div style="text-align: justify;">Vậy theo quan niệm của Khổng Tử và các Nho gia, thực chất của một xã hội đại đồng là gì? Có phải đó là cái xã hội không còn sự phân chia đẳng cấp và mọi người đều được bình đẳng?</div><div style="text-align: justify;">Đúng là các nhà Nho đã tìm ra một nguyên nhân của tình trạng xã hội rối loạn là “cha không ra cha, con không ra con" , tức là họ coi một trong những nguồn gốc làm cho xã hội rối loạn là sự rối loạn từ trong gia đình. Do đó, các nhà Nho đều cho rằng muốn cho xã hội có trật tự, kỷ cương, thì trước hết và cơ bản là gia đình phải có trật tự, kỷ cương, sao cho "cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng". Các nhà Nho chủ trương giáo dục, giáo hoá mọi người trong xã hội theo những nguyên lý đạo đức Chính danh, Tam cương, Ngũ thường, trước hết và chủ yếu là nhằm mục đích trên. Cho nên cũng dễ hiểu tại sao Nho giáo chú trọng, đề cao giáo dục, giáo hoá với phương châm "Hữu giáo vô loại", "Phú nhi hậu giáo”, coi giáo dục, giáo hoá là biện pháp căn bản nhất để duy trì trật tự, kỷ cương trong gia đình - tiền đề và điều kiện bảo đảm trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội. </div><div style="text-align: justify;">Song những chủ trương ấy của các nhà Nho không phải là nhằm đem lại một gia đình mà trong đó, mọi người đều bình đẳng hoàn toàn. Trong cái gia đình ấy, người cha luôn có uy quyền cao nhất, người chồng có quyền lớn hơn vợ. Có như vậy, gia đình ấy mới được xem là gia đình có kỷ cương, trật tự và có giáo dục. Đến Đống Trọng Thư thì quan niệm về một gia đình có trật tự, kỷ cương lại càng trở nên chặt chẽ hơn, khắc nghiệt hơn, trong đó quyền hành của người cha, người chồng là tuyệt đối: “Cha bắt con chết con phải chết, con không chết là bất hiếu, vợ phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của chồng". Và khi coi gia đình là tế bào của xã hội, nhà là gốc của nước, trật tự, kỷ cương trong gia đình là tiền đề, điều kiện để duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, rốt cuộc các nhà Nho đều chủ trương bảo vệ, duy trì vinh viễn địa vị thống trị tuyệt đối của ông vua (Thiên tử), cố định hoá trật tự và cơ cấu giai cấp của xã hội phong kiến. Rõ ràng, cái xã hội lý tưởng, theo quan niệm của các nhà Nho, phải là một xã hội mà ở đó, đứng đầu nhà nước là Thiên tử và Thiên Tử là người có uy quyền cao nhất, dưới Thiên Tử là vua chư hầu, dưới vua chư hầu là các quan đại phu, dưới quan đại phu là thần dân trong thiên hạ. Nói cách khác, cái xã hội đó phải luôn đặt trong vòng trật tự có lợi cho giai cấp thống trị và vì vậy, kẻ nào phá hoại cái "trật tự" đó sẽ bị Thiên Tử trừng phạt - đúng như các nhà Nho luôn luôn chủ trương: Lê nhạc, chinh phạt đều từ Thiên Tử mà ra.</div><div style="text-align: justify;">Khi đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng, cũng tất yếu, trong học thuyết của mình, các nhà Nho đều mong muốn rằng trong xã hội đó, bằng mọi cách, phải duy trì được nguyên tắc: giai cấp địa chủ phong kiến mãi mãi là giai cấp "cai trị người" và được người phụng dưỡng, còn các giai cấp, tầng lớp khác mãi mãi ‘bị người cai trị" và phải nuôi dưỡng người. Đôi khi, trước một thực trạng xã hội mà trong đó, mâu thuẫn giữa các giai cấp và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị diễn ra gay gắt, hầu như không thể điều hòa được, cũng như tình trạng rối loạn xã hội hầu như không chấm dứt, các nhà Nho phải viện tới "ý trời", “mệnh trời". Theo đó, cái trật tự đẳng cấp, phân vị ấy là do trời sắp đặt, là ý trời và không thể đảo ngược được. Và những hành vi hành động nào làm nguy hại đến trật tự đó là “có tội với trời và dù có cầu đảo thì trời cũng không tha thứ" (Khổng Tử). Như vậy, dù Nho giáo có đưa ra quan niệm về một xã hội đại đồng lý tưởng thì chẳng qua cũng chỉ nhằm tô vẽ, bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến cũng như quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm duy trì vĩnh viễn sự bất công, bất bình đẳng. Xét đến cùng, quan niệm của Nho giáo về một xã hội lý tưởng - thái bình, ổn định, có trật tự, kỷ cương... là hết sức nghiệt ngã, hết sức hình thức và thù địch với cuộc sống, với con người, với nhân dân), là cản trở và đi ngược lại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử.</div><div style="text-align: justify;">Thứ hai, xã hội lý tưởng trong quan niệm của các nhà Nho là xã hội mà trong đó mọi người phải có đời sông đạo đức và đời sống vật chất tương đối đầy đủ. Ở nội dung này, trước hết cần lưu ý rằng, đã có những ý kiến khẳng định Nho giáo chủ trương một xã hội nghèo, một xã hội mà trong đó, mọi người đều "an bần lạc đạo", vui với cảnh nghèo. Cũng đã có ý kiến khẳng định Nho giáo đối lập lợi ích vật chất với đạo đức, coi thường việc làm giàu và, Nho giáo chưa bao giờ là động lực của sự phát triển kinh tế. Hai loại ý kiến này đều đưa vào rất nhiều câu chữ trong các sách kinh điển của Nho giáo để luận chứng cho sự khẳng định của mình. Song vấn đề không hoàn toàn như vậy. Trong toàn bộ (tổng thể) học thuyết của mình, các nhà Nho, từ người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử trở đi không hoàn toàn đối lập lợi ích vật chất với đạo đức, không coi thường việc làm giàu, không phủ nhận vai trò tích cực của sự phát triển kinh tế đối với sự hoàn thiện con người và sự ổn định xã hội.</div><div style="text-align: justify;">Đúng là Nho giáo coi Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là những phẩm chất đạo đức cao cả mà mọi người cần tu dưỡng đề tự hoàn thiện mình, song nó cũng bàn về những vấn đề đạo đức trong sự thống nhất, gắn liền với Lợi (vật chất). Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử không phản đối việc làm giàu, cũng không coi việc làm giàu là xấu, nếu "sự giàu” ấy không trái đạo. Ông nói rõ rằng:"Giàu với sang, ai lại chẳng muốn? Nhưng nếu chẳng phải đạo mà được giàu sang, thì người quân tử chẳng thèm. Nghèo với hèn, ai mà chẳng ghét? Nhưng nếu chúng nó đến với mình mà mình chẳng lỗi đạo thì người quân tứ chẳng từ bỏ. Ông còn nói thêm:"Như nước nhà yên trị mà mình chịu bần cùng, đê tiện, đó là sự xấu hổ. Còn như nước nhà loạn lạc mà mình hưởng phần giàu có, sang trọng, đó là điều đáng xấu hổ". Cho nên theo ông, "Nếu ai thấy món lợi bèn nhớ đến điều nghĩa mà chằng dám phạm... người như vậy cũng đáng gọi là bậc thánh nhân được rồi”. Đúng là Khổng Tử coi cánh giàu sang như “đám mây nổi" nhưng chỉ khi cảnh giàu sang ấy do hành vi bất nghĩa mà có được, và nếu giàu sang mà bất nghĩa, trái đạo thì ông khuyên mọi người cùng ông thà "ăn cơm thô, uống nước lã, sống trong cảnh đơn bạc" còn hơn! Khổng Tử cũng không chủ trương vứt bỏ hoàn toàn vật lợi, mà chỉ chủ trương bỏ cái vật lợi nhỏ bé trước mắt (ở Khổng Tử và các nhà Nho, so với đạo đức, lợi ích vật chất chỉ là nhỏ bé, là cái lợi trước mắt) để được cái lợi lớn hơn, lâu dài hơn. Không những thế, ở chương Tử Lộ, sách Luận ngữ, Khổng Tử còn khuyên nhà cầm quyền rằng khi dân đã đông thì phải giúp họ làm giàu, khi dân đã giàu thì phải giáo hoá họ.</div><div style="text-align: justify;">Mạnh Tử cũng nhận thức rõ vai trò của đời sống vật chất, lợi ích vật chất đối với đời sống đạo đức, đối với công việc giáo hoá con người. Từ tư tưởng "dân vi bang bản", "dân vi quý”, Mạnh Tử đã từng đòi hỏi nhà cầm quyền phải làm cho dân có tài sản riêng (chế dân chi sản), phải tạo sản nghiệp cho dân. Bởi theo ông, dân "có hằng sản mới có hằng tâm", dân có đời sống vật chất đầy đủ thì họ mới thực hiện được đạo Hiếu, đạo Trung, mới học và làm theo Lễ, Nghĩa. Ngoài ra, Mạnh Tử không chỉ nhận thức được vai trò của đời sống vật chất đối với đời sống đạo đức, mà còn nhận thức được rằng kinh tế là cơ sở, động lực của công việc giáo dục, giáo hoá. Ông nói:"Đấng minh quân chế định điền sản mà chia cho dân cùng cày cấy cốt khiến cho họ trên đủ phụng dưỡng mẹ cha, dưới đủ nuôi dưỡng vợ con, nhằm năm trúng mùa thì mãi no đủ, phải năm thắt ngặt thì khỏi nạn chết đói. Được vậy rồi, nhà Vua mới khiến dân làm thiện. Tự nhiên họ sẽ theo điều thiện một cách dễ dàng. </div><div style="text-align: justify;">Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử không hoàn toàn coi thường Lợi, không đối lập Nghĩa với Lợi, cũng như không coi thường và phủ nhận sự giàu sang. Xét về thực chất, xã hội lý tưởng mà các ông đề xuất không phải là một xã hội nghèo. Nghiên cứu Nho giáo, chúng ta thấy rằng, những tư tưởng trên của Khổng Tử và Mạnh Tử được bổ sung và phát triển thêm ở các nhà Nho sau này.</div><div style="text-align: justify;">Tất nhiên, nhằm thủ tiêu và đè bẹp ý thức phản kháng của giai cấp "người bị trị", nhằm bảo vệ trật tự xã hội phong kiến, các nhà Nho đều khuyên răn, gieo rắc trong đầu óc những người bị trị tư tưởng bằng lòng với cảnh nghèo, yên lòng với thân phận và địa vị của mình. Chẳng hạn, trong sách Luận ngữ có đoạn: Tử Cống hỏi đức Khổng Tử: "Như nghèo mà chẳng dua bợ, giàu chẳng kiêu căng, người như vậy nhân phẩm thế nào?" Đức Khổng Tử đáp: "Như vậy là khá? Song, chưa bằng người nghèo mà vui, người giàu mà ưa việc lễ nghĩa".</div><div style="text-align: justify;">Từ những câu chữ trên của Khổng Tử, chúng ta thấy, rõ ràng ông không chủ trương mọi người hãy "an bần lạc đạo", rằng, nếu phải nghèo thì hãy bằng lòng với nó chứ đừng dua bợ (đánh mất nhân cách). Và với ông, giàu hay nghèo, điều đó không quan trọng mấy, cái quan trọng và cần thiết hơn là vui với đạo, học và làm theo đạo, theo lễ nghĩa. Nếu được như vậy thì theo ông, người nghèo không nên oán trách, ghét bỏ cảnh phận nghèo của mình (Bần nhi vô oán). Tất nhiên, với một đầu óc thực tế, Khổng Tử đã nhận ra rằng thật khó có người "nghèo mà vui được", khó có ai lại không oán ghét cảnh nghèo nàn. Ông nói: "Bần nhi vô oán, nan, phú nhi vô kiêu, dị” (Giàu có mà không kiêu căng thì còn dễ chớ nghèo khổ mà chẳng sầu oán thì thật khó). Song, như trên đã trình bày, cái điều đáng sợ ở các nhà Nho không phải là nghèo mà là xã hội không yên ổn. </div><div style="text-align: justify;">Tóm lại, theo chúng tôi, trong quan niệm của các nhà Nho, xã hội lý tưởng phải là xã hội bảo đảm được sự kết hợp hài hòa giữa đời sống kinh tế t và đời sống tinh thần, đạo đức lành mạnh. Và theo họ, sự hài hòa ấy là một trong những yếu tố cơ bản để giữ vững ổn định, trật tự của xã hội phong kiến.</div><div style="text-align: justify;">Thứ ba, trong quan niệm cua các nhà Nho, xã hội lý tưởng phải là xã hội có giáo dục, mọi người phải được giáo dục, giáo hoá và có đạo đức. Ở các nhà Nho, giáo dục, giáo hóa cũng là một trong những biện pháp chính trị căn bản để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật tự, kỷ cương, và tạo ra những con người có đạo đức, những mẫu người lý tưởng. Chính vì vậy mà Nho giáo đặc biệt đề cao, coi trọng giáo dục, giáo hóa. Nhận thức được vai trò của con người, của giáo dục, giáo hóa mà ngay từ đầu Khổng Tử đã đưa ra chủ trương "Hữu giáo vô loại", "Phú nhi hậu giáo" với phương châm "Học không biết chán, dạy không biết mỏi". Tất nhiên, nội dunggiáo dục, giáo hóa trước sau vẫn là những lời dạy của các bậc Thánh hiền trong Tứ thư, Ngũ kinh - những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của đạo làm vua, đạo làm bề tôi và đạo làm người. Hầu hết các nhà Nho đều khẳng định vai trò quyết định của đạo đức đối với việc hoàn thiện con người và ổn định, hoàn thiện xã hội. Khống Tử đã từng nói: "Muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh, muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng những dân biết xấu hổi họ lại còn cảm hoá mà trở nên tốt lành”.</div><div style="text-align: justify;">Song, để làm cho dân có đức hạnh và tuân phục, để làm tròn trách nhiệm là người "thay trời trị dân" , "cha mẹ của muôndân", để xứng đáng với cương vị là người giáo hoá, “dưỡng dân", theo các nhà Nho, người cầm quyền, kẻ cai trị trước hết phải là người được giáo dục, tự mình giáo hoá và có đạo đức Khổng Tử nói: "Này, nếu người bề trên chuộng lễ, thì dân chẳng dám bỏ niềm cung kính. Nếu người bề trên háo nghĩa, thì dân chẳng bội lẽ công chính. Nếu người bề trên biết tín thật, thì dân chẳng dám sai ngoa trong tình giao ước. Nếu nhà cầm quyền đủ lễ, nghĩa, tín như vậy, thì dân chúng từ bốn phương xa sẽ sai con đến để phục dịch mình. Cần chi phải học nghề cày cấy”.</div><div style="text-align: justify;">Các nhà Nho, tiêu biểu là Khổng Tử và Mạnh Tử, coi việc dân đủ ăn, đủ mặc là một công việc hàng đầu để trị nước, là một trong những tiền đề cho sự ổn định của xã hội, cho việc giáo hoá thành công (có hằng sản mới có hằng tâm). Nhưng các nhà Nho vẫn coi công việc giáo dục, giáo hoá là nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất của nhà cầm quyền, coi việc dân có đủ đức quan trọng hơn việc họ có đủ ăn, coi Nhân, Nghĩa cần thiết hơn nước và lửa. Khổng Tử đã từng khuyên nhà cầm quyền không chỉ phải giúp dân làm giàu, mà điều chủ yếu và cơ bản là khi dân đã giàu thì phải giáo hoá họ. Còn Mạnh Tử thì coi việc giáo hoá để dân có đạo đức là công việc quan trọng nhất của kế sách giữ nước. Bởi lẽ như ông nói: "Thành quách chẳng hoàn bị, đồ kinh pháp chẳng nhiều, chẳng phải là tai nạn trong nước vậy, ruộng nương chẳng mở mang, của cải chứng tích tụ chẳng phải là sự nguy hại trong nước vậy Người trên không có lễ giáo, người dưới không có học thức, kẻ dân tàn tặc đấy lên, nước mất đến nơi". Tiếp tục tư tưởng này của Mạnh Tử, nhà tư tưởng của chế độ phong kiến tập quyền Đặng Trọng Thư cũng nói:"Kìa muôn dân chạy theo cái lợi, như nước chảy xuống chỗ thấp, nếu không lấy giáo hoá mà ngăn chặn thì lại không thể giữ lại được. Thế cho nên, giáo hoá xây dựng được thì gian tà đều ngừng lại và việc ngăn ngừa mới hoàn thành, giáo hoá mà bị phế bỏ thì gian tà đua nhau mà nảy ra, hình phạt không kể xiết, việc ngăn ngừa bị hỏng. Các bậc vua đời xưa hiểu rõ điều đó, thế cho nên họ cứ ngồi yên mà trị thiên hạ, không ai không coi việc giáo hoá là việc lớn".</div><div style="text-align: justify;">Nội dung giáo dục của Nho giáo, trước sau cũng chỉ là những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản trong Tam cương, Ngũ thường. Nho giáo đùng Tam cương, Ngũ thường để giáo hoá mọi suy nghĩ, hành động của con người đúng với danh phận, địa vị của mình. Có như vậy, con người mới có đạo đức, xã hội mới ổn định, mới có trật tự, kỷ cương. Tất nhiên, xét về tính chất giai cấp và mục đích chính trị, tư tưởng giáo dục, giáo hoá ở Nho giáo là nhằm bảo vệ và duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của chê độ phong kiến. Và vì vậy, ở Nho giáo, giáo dục, giáo hóa còn là một phương tiện chính trị, một biện pháp cai trị. Cho nên, không phải ngẫu nhiên, từ thời Tuân Tử về sau, các chính quyền phong kiến đều rất coi trọng và khuyến khích giáo dục, khoa cử. Đồng thời, với việc đề xuất chủ trương chọn người ra làm quan theo phương châm "Học nhi ưu tắc sĩ”, thì trên thực tế, Nho giáo đã đòi hỏi người cầm quyền không chỉ là người có đạo đức mà còn phải là người có tri thức Nho giáo.</div><div style="text-align: justify;">Như vậy, trong quan niệm của các nhà Nho, việc giáo dục, việc giáo dục, giáo hóa để làm cho tất cả mọi người trong xã hội đều có đạo đức đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập một xã hội lý tưởng.</div><div style="text-align: justify;">Với chủ trương coi trọng giáo dục, giáo hoá đạo đức cho con người và cùng với điều đó là nhà nước phong kiến đề cao, tôn vinh người học giỏi, áp dụng chính sách chọn cử người hiền tài ra làm quan thông qua con đường học tập, thi cử, Nho giáo đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một tầng lớp trí thức trong xã hội cũng như một tầng lớp cai trị, cầm quyền có học. Đồng thời, nó đã tạo ra một xã hội hết mực "đề cao văn hoá, đề cao văn hiến, trọng kẻ có học, kẻ làm văn chương, gây ra tâm lý hiếu học, tôn sư trọng đạo cho đến mức sùng bái văn tự…Tuy nhiên, với nội dung giáo dục, thi cử chỉ giới hạn ở nhưng nguyên lý, chuẩn mực đạo đức trong Tứ thư, Ngũ kinh, với phương châm học tập và thi cử chủ yếu là “thuật nhi bất tác", với mục đích giáo dục là đào tạo ra người làm quan để hưởng bổng lộc và hoàn thiện đạo đức con người phù hợp với xã hội phong kiến, nên nền giáo dục, khoa cử của Nho học - cũng là nền giáo dục trong xã hội phong kiến - không thể tránh để lại những di hại, những hạn chế. Điều dễ nhận thấy là nền giáo dục đó đã tạo ra một lớp người mà tri thức của họ chỉ thu hẹp ở những hiểu biết về đạo đức, các quan hệ xã hội và cách ứng xử của con người trong các quan hệ xã hội đó. Do vậy, trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trước những bước ngoặt của sự phát triển xã hội, họ không có vai trò gì đáng kể. </div><div style="text-align: justify;">Tất nhiên, với chủ trương coi trọng đạo đức, coi việc hoàn thiện nhân cách đạo đức của mỗi người là điều kiện để xây dựng và hoàn thiện xã hội lý tưởng, Nho giáo đã góp phần tạo đựng cho con người lối sống có trách nhiệm với gia đình, đất nước, với cả chính mình và đặc biệt coi trọng trật tự, kỷ cương một lối sống mà "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Nho giáo đã tạo ra một cộng đồng xã hội ó tôn ti trật tự, hòa mục từ trong gia đình đến Nhà nước, thiên hạ. Song cũng do những hạn chế trong nội dung giáo dục mà Nho giáo đã góp phần tạo ra một xã hội và những con người bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, và do đó, hạn chế mặt tài năng và tính sáng tạo cửa con người cũng như cản trở sự phát triển của xã hội, của lịch sử.</div><div style="text-align: justify;">Mặc dù quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng có những điểm hạn chế, song có thể khẳng định rằng, nó vẫn có một ý nghĩa nhất định đối với chúng ta trong việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xác định những mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, nhất là mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, có văn hoá, có trật tự, kỷ cương.</div><div style="text-align: right;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><strong>Nguyễn Thanh Bình</strong></div><div align="right">Theo: <em><strong>Tạp chí Triết học</strong></em></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-89236801521173319982010-10-07T06:42:00.000-07:002010-10-07T06:42:58.249-07:00CÁC MÁC - CON NGƯỜI HOÀN THIỆN VÀ VĨ ĐẠI<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjKsCNCD8uv0szoBR5L_iLhPQLyPOyQea3RR1LO3MHUu5LrQXUzZeCn_rwb3szUdPGYc1eWkUweKghlrRA03fy6A0XQU6pBbxoouQh9MOO8K-VcLXc8PRc7tZ6-1AZQscRiu_H4iXe5cvk/s1600/6.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="254" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjKsCNCD8uv0szoBR5L_iLhPQLyPOyQea3RR1LO3MHUu5LrQXUzZeCn_rwb3szUdPGYc1eWkUweKghlrRA03fy6A0XQU6pBbxoouQh9MOO8K-VcLXc8PRc7tZ6-1AZQscRiu_H4iXe5cvk/s320/6.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Đối với nhân dân Việt Nam và tất cả các dân tộc tiến bộ trên thế giới, chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất. Học thuyết của Người nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp mà ở đó, "sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" mãi mãi là ngọn đuốc sáng ngời dẫn dắt giai cấp cần lao và nhân loại tự giải phóng mình khỏi ách áp bức và bóc lột, tiến lên xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.</em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Các Mác (Karl Marx) - một trong những vĩ nhân kiệt xuất nhất của lịch sử nhân loại, Người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhà triết học, nhà kinh tế học lỗi lạc, lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản toàn thế giới. Mác sinh ngày 5 tháng Năm 1818 ở thành phố Tơria (phía Tây nước Đức) trong một gia đình trí thức lớn. Cha của Mác là Henrích Mác (1777 - 1838), luật sư gốc Do Thái, có tầm hiểu biết sâu rộng về các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng. Ông không những là người cha, người thầy mà còn là người bạn thân thiết và gần gũi của Các Mác. Mẹ của Các Mác có tên là Henriétta Phrétbuốc (1787- 1863). Bà có ảnh hưởng lớn đến tình cảm của các con mình đối với người lao động nghèo khổ.</div><div style="text-align: justify;"> Năm 1830, Mác vào học trường Trung học Tơria. Cậu học rất giỏi và nổi bật ở lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo, có năng lực về toán học. Do được tiếp xúc với những thầy giáo có trình độ cao về chuyên môn, theo chủ nghĩa duy vật và có xu hướng tự do nên Mác đã tỏ rõ tư tưởng biết gắn hạnh phúc của mình với hạnh phúc của nhiều người. Bản luận văn tốt nghiệp trường Trung học của Mác - "Suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề" (1835) đã chứa đựng mầm mống thiên tài của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Mác viết: "... Chúng ta lựa chọn một nghề mà trong đó chúng ta có thể lao động nhiều nhất cho loài người thì... niềm hạnh phúc của chúng ta sẽ thuộc về hàng triệu người,...". "Một người lựa chọn nghề chỉ vì mình thôi, thì người đó có thể trở thành nhà bác học, nhà soạn nhạc nổi tiếng,... nhưng người đó không bao giờ thực sự hoàn thiện và vĩ đại, còn nếu người đó làm nhiều nhất cho nhân loại thì hạnh phúc của người đó sẽ thuộc về hàng triệu người".</div><div style="text-align: justify;"> Tháng Mười 1835, Mác vào học ngành luật tại trường Đại học Tổng hợp Bon và sau đó học tại trường Đại học Tổng hợp Béclin. ở đây, Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học, sử học và rất hăng say học ngoại ngữ. Ngày 15 tháng Tư 1841, Các Mác được phong học vị Tiến sĩ triết học khi mới ở tuổi 23, với đề tài: "Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya" tại Trường Đại học Tổng hợp Iêna. </div><div style="text-align: justify;">Ngày 19 tháng Sáu 1843, lễ thành hôn giữa Mác và Gienny được tổ chức tạo Croixnác, bất chấp sự phản đối kịch liệt của họ tộc Gienny. Cuối năm đó, vợ chồng Mác phải đi Paris và bắt đầu cuộc sống lưu vong chính trị ở nước ngoài.</div><div style="text-align: justify;">Lần đầu tiên Các Mác gặp Phriđrích Ăngghen tại Pari vào cuối tháng Mười một 1842. Lần gặp gỡ thứ hai vào tháng Tám 1844 đã đánh dấu sự hợp tác lâu dài suốt cả cuộc đời giữa hai bộ óc bách khoa và thiên tài của thế kỷ XIX. </div><div style="text-align: justify;">Trong thời gian làm chủ bút "Nhật báo tỉnh Ranh" (1842-1843), Mác đã chuyển dần từ lập trường duy tâm sang lập trường duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Năm 1844, ông viết tác phẩm "Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen". Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Mác đã tuyên bố: giai cấp có thể thực hiện giải phóng toàn thể nhân loại chỉ có thể là giai cấp vô sản. Những tư tưởng về kinh tế và những quan niệm duy vật về lịch sử rất cơ bản và sâu sắc được trình bày trong tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844" về sau được ông phát triển trong bộ "Tư bản”. Cuối năm 1844 - mùa Xuân 1846, Mác và Ăngghen đã viết chung hai tác phẩm: "Gia đình thần thánh hay là Phê phán sự phê phán có tính chất phê phán. Chống Brunô Bauơ và đồng bọn" và "Hệ tư tưởng Đức", phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ và toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, cũng như chủ nghĩa duy vật không triệt để của Phoiơbắc, khẳng định vai trò quyết định sự phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân. Năm 1847, Mác viết tác phẩm luận chiến nổi tiếng "Sự khốn cùng của triết học" để đập lại những luận điểm triết học tiểu tư sản của Phruđông trong cuốn "Triết học của sự khốn cùng". </div><div style="text-align: justify;">Mùa Xuân năm 1847, Mác và Ăngghen gia nhập Hội đồng minh những người cộng sản. Cuối năm đó cho đến đầu năm 1848, hai ông được giao soạn thảo Cương lĩnh hoạt động của tổ chức này. Bản "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" được tuyên bố vào tháng Hai 1848 ở Luân đôn đã làm rung chuyển chế độ tư bản chủ nghĩa. Lời hiệu triệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!" đã làm cho sức mạnh tinh thần của giai cấp vô sản tăng lên gấp bội. Kể từ lúc này, "giai cấp vô sản đã tìm thấy sức mạnh tinh thần ở triết học và triết học đã tìm thấy ở giai cấp vô sản lực lượng vật chất của mình". Tác phẩm này là một cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vô sản, nó soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ của chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi. Hai ông đã vạch rõ tính quy luật của cách mạng vô sản, nêu rõ phải sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền về tay giai cấp vô sản và khẳng định: chính giai cấp vô sản là người sáng tạo ra xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.</div><div style="text-align: justify;">Không chỉ sáng tạo lý luận cho phong trào vô sản, Các Mác còn là người tổ chức, lãnh đạo Quốc tế I, tức "Hội liên hiệp công nhân quốc tế" (được thành lập ngày 22 tháng Chín 1864). Ông được coi là linh hồn, là trí tuệ của tổ chức này.</div><div style="text-align: justify;">Năm 1867, "viên trái phá đáng sợ nhất từ xưa đến nay giội lên đầu bọn tư sản và địa chủ" - Bộ "Tư bản" được xuất bản tập I. Đó là "kết quả nghiên cứu khoa học của cả một đời người... tất cả mọi người đều thừa nhận ở đây, lần đầu tiên, chủ nghĩa xã hội được trình bày một cách khoa học... Ai còn muốn chống chủ nghĩa xã hội thì phải thắng được Mác..." (Ăngghen). Bộ "Tư bản" như là một đòn bẩy lớn của lịch sử, một sức mạnh cách mạng theo ý nghĩa chân chính nhất của từ đó" (Gienny). Bộ "Tư bản" không được Mác xuất bản toàn bộ khi ông còn sống và sau này, Ănghen đã hoàn thành việc xuất bản tập II và tập III của bộ sách đồ sộ này.</div><div style="text-align: justify;">Trong bộ "Tư bản", Mác đã trình bày những vấn đề hết sức quan trọng của sản xuất tư bản nói chung: sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối, sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành tư bản (tích luỹ tư bản), tích luỹ ban đầu của tư bản; những vấn đề giá trị thặng dư và lơị nhuận, sự chuyển hoá của lợi nhuận thành lợi nhuận trung bình, tư bản cho vay và tư bản thương nghiệp,... Mác vạch rõ quy luật giá trị thặng dư và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hoá được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ,... Trong phần kết luận, Mác đã nêu lên sự tất yếu phải thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa và thay thế nó bằng một hình thái tổ chức cao hơn là xã hội cộng sản chủ nghĩa. </div><div style="text-align: justify;">Cho đến nay, sau hơn một thế kỷ, bộ "Tư bản" của Các Mác vẫn được đánh giá là bộ sách phân tích sâu nhất và kỹ nhất về chủ nghĩa tư bản và bản chất của nó. Nhiều nhà tư bản lớn của thế giới nhận định: Chính nhờ có học thuyết của Mác mà chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh cơ chế hoạt động và thái độ đối với người lao động để thích ứng và có được sự phát triển như hiện nay. Mác vẫn được coi là một trong số mười nhà tư tưởng tiêu biểu nhất của thiên niên kỷ thứ hai và nhiều học giả phương Tây như Giắccơ Đêriđa, Maicơn Vađê, Đanien Benxaiđơ,... khẳng định: "Thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ của Mác".</div><div style="text-align: justify;">Sau Công xã Paris (1871), Mác viết tác phẩm "Nội chiến ở Pháp", nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như Công xã Paris. Phê phán những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong Đảng xã hội dân chủ Đức, ông đã viết tác phẩm "Phê phán Cương lĩnh Gôta" (1875). Ông đã nêu ra một vấn đề rất quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn thấp và giai đoạn cao). Năm 1876, sau khi Quốc tế I giải tán, Mác đã nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của phong trào công nhân. Mác và Ăngghen hoạt động không ngừng nghỉ trong cuộc đấu tranh của phong trào công nhân quốc tế. Hai ông đã thực sự là ngọn đuốc trí tuệ và là ngọn cờ lý luận tiên phong của giai cấp vô sản toàn thế giới.</div><div style="text-align: justify;">Viết về Mác, ngay từ năm 1880, nhà báo Mỹ là John Swinton đã nhận xét: "Một trong những người xuất sắc nhất của thời đại chúng ta là Các Mác, ... Một người không màng ấn tượng bên ngoài, cũng không màng tiếng thơm, không mảy may quan tâm đến những lời huênh hoang thế tạo lẫn tham vọng nắm quyền lực, một người ung dung không biết mệt mỏi, có trí tuệ mạnh mẽ rộng lớn và cao cả, hoàn toàn đắm mình trong những ý định cao xa, những phương pháp logic, những mục tiêu thực tế - Các Mác cả đến hôm nay đã và vẫn đang đứng đằng sau những tai biến làm rung chuyển các dân tộc, làm đổ các ngai vàng và giờ đây đe doạ và gây khủng khiếp cho những nhân vật đội vương miện và những kẻ bịp bợm giữ những cương vị nhà nước nhiều hơn bất cứ người nào khác ở Châu Âu". Những công trình khoa học thiên tài của Các Mác đã biến thành sức mạnh vật chất to lớn, và lúc nào, "đâu đâu ông cũng chuẩn bị miếng đất cho ngày giáng thế"<!--[if !supportFootnotes]-->[1]<!--[endif]-->.</div><div style="text-align: justify;">Chúng ta không thể hình dung được khối óc thiên tài ấy đã không ngừng làm phong phú cho phong trào vô sản của cả bán cầu bằng tư tưởng hùng hậu của mình. Nhờ có ông mà chúng ta có được như ngày hôm nay... nếu không có Các Mác thì cho đến hôm nay nhân loại vẫn còn mò mẫm trong bóng tối và trong sự bần cùng của ách áp bức và bóc lột.</div><div style="text-align: justify;">Ngày 14 tháng Ba 1883, "trí tuệ mạnh mẽ nhất của đảng ta đã ngừng tư duy, trái tim vĩ đại nhất mà từ trước đến nay loài người đã biết được đã ngừng đập", Các Mác đã ra đi thanh thản trên chiếc ghế bành mà ông vẫn ngồi làm việc. Ông được an táng tại nghĩa trang Haighết ở Luân đôn bên cạnh mộ người vợ thân yêu của mình. Sự ra đi của Các Mác đã gây tổn thất rất to lớn cho phong trào của giai cấp công nhân quốc tế. "Loài người đã đứng thấp hơn một cái đầu và hơn nữa đó là cái đầu có ý nghĩa nhất trong số những cái đầu mà loài người trong thời đại chúng ta đã có được" (Ănghen). </div><div style="text-align: justify;">Ph. Ăngghen đã khái quát hai phát minh vĩ đại nhất của Các Mác đó là: Vạch ra quy luật phát triển chung của lịch sử - những quan niệm duy vật về lịch sử (hòn đá tảng là học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội) và vạch ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - học thuyết giá trị thặng dư. Trong hai phát minh này, Các Mác đã luận chứng cho sự tiêu vong của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.</div><div style="text-align: justify;">Học thuyết cách mạng của Mác và Ăngghen được Vlađimia Ilích Lênin kế tục và phát triển thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Tên tuổi của các ông mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những vĩ nhân vĩ đại nhất.</div><div style="text-align: justify;"> Đứng trước hiện thực những năm đầu của thế kỷ XXI, thế giới đổi thay và biến động bất thường, quyền làm người và nền hoà bình thế giới đã, đang bị đe doạ và xâm phạm nghiêm trọng, nhân loại tiến bộ lại một lần nữa ngưỡng vọng về thời đại mà Các Mác đã có công lớn tạo ra. Bởi vậy, nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới tưởng niệm Các Mác với lòng kính trọng, chân thành, tình cảm nồng nhiệt cháy bỏng của trái tim và sự thôi thúc của lý trí. Điều đó cũng đòi hỏi chúng ta phải đi sâu nắm vững những giá trị cơ bản, bền vững cũng như phát triển sáng tạo học thuyết của Người để phục vụ cho cuộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại: Hoà bình, Độc lập, Dân chủ, Công bằng và Tiến bộ xã hội.</div><div style="text-align: justify;">Đối với nhân dân Việt Nam và tất cả các dân tộc tiến bộ trên thế giới, chủ nghĩa Mác vẫn là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất. Học thuyết của Người nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp mà ở đó, "sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" mãi mãi là ngọn đuốc sáng ngời dẫn dắt giai cấp cần lao và nhân loại tự giải phóng mình khỏi ách áp bức và bóc lột, tiến lên xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div align="right" class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-top: 12pt; text-align: right; text-indent: 0.5in;"><strong><span lang="ES" style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 12pt; line-height: 150%;"><span style="color: black;">Nguyễn Bá Cường</span></span></strong></div><div align="right" class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-top: 12pt; text-align: right; text-indent: 0.5in;"><strong><span lang="ES" style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 12pt; line-height: 150%;"></span></strong><span lang="ES" style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 12pt; line-height: 150%;"><span style="color: black;">Tập san Đại học Sư phạm Hà Nội, số 19/2006</span></span><strong><span lang="ES" style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 12pt; line-height: 150%;"><br />
</span></strong><div style="text-align: justify;"><br />
<br />
</div></div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-43178517070850812242010-10-07T06:36:00.000-07:002010-10-07T06:36:44.251-07:00ARISTOTLE - NHÀ BÁCH KHOA TOÀN THƯ VĨ ĐẠI NHẤT CỦA HY LẠP CỔ ĐẠI<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEic60OKOYLdauaFZlZV2Ov04vUBdpi4_znH53NGWmb6UpjGTGKucfIzBsSXGmaTiXJ5M-sq3mY2Yy7JR6PnKTXJ-AaeIXi4-t52FupWwFMq7ZfA9pd8zh7BPj3el6ziTAHspf1X0-u7vOM/s1600/5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="281" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEic60OKOYLdauaFZlZV2Ov04vUBdpi4_znH53NGWmb6UpjGTGKucfIzBsSXGmaTiXJ5M-sq3mY2Yy7JR6PnKTXJ-AaeIXi4-t52FupWwFMq7ZfA9pd8zh7BPj3el6ziTAHspf1X0-u7vOM/s320/5.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Aristotle là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết sức lớn lao trong nền Văn Minh Tây Phương. Cùng với Plato, Aristotle được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Aristotle hiểu rõ toàn thể học thuật Hy Lạp của các thời đại trước, đã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển kiến thức của nhân loại, gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ về sau.</em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">1/ Cuộc đời của Aristotle </div><div style="text-align: justify;"><br />
Aristotle chào đời tại Stagira thuộc miền Thrace năm 384 trước Tây Lịch. Stagira là một tỉnh nhỏ, là thuộc địa của Hy Lạp bên bờ phía bắc biển Aegean mà ngày nay có lẽ là Stavro. Cả hai cha và mẹ của Aristotle đều gốc người Ionien. Cha Aristotle, ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều đình Vua Amyntas II, cha của Vua Philip of Macedonia. Mẹ của Aristotle vốn người miền Chalcis. Có lẽ trong 17 năm đầu, Aristotle đã sống với cha mẹ và được cha dạy cho về Y Khoa. Năm 17 tuổi, Aristotle tới thành Athens và theo hoc nghề thầy thuốc.</div><div style="text-align: justify;">Năm 367 trước TL, Aristotle vào học Trường Academos của Plato. Vào thời gian này, Plato 61 tuổi và đã liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy Hàn Lâm Viện Academos đặc biệt chú trọng về Luật Pháp, Chính Trị, thêm vào là Toán Học và Thiên Văn. Ngày nay, người ta chỉ hiểu biết rất mơ hồ về cuộc sống của Aristotle trong 20 năm tại Hàn Lâm Viện.</div><div style="text-align: justify;">Aristotle được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và xuất sắc hơn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Người ta còn kể rằng Plato đã phải gọi Aristotle là “Trí Tuệ của Nhà Trường” (l'entendement de l'Ecole). Theo như truyền thống, Aristotle phụ trách giảng dạy môn Tu Từ Pháp (Rhetoric). Ông cũng soạn ra vài tập Đối Thoại (Dialogues) theo khuôn mẫu của Thầy Plato. Các tác phẩm này đều trở nên rất nổi danh vì lối hành văn trôi chảy và trong sáng. Có người cho rằng giữa Aristotle và Plato có sự bất đồng ý kiến trầm trọng, nhưng không ai tìm ra được các dẫn chứng đáng tin cậy. Có lẽ đối với Plato, Aristotle đã bất đồng ý về nhiều giáo điều song ông lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lòng biết ơn. Khi Plato qua đời vào năm 347, Aristotle viết một bài điếu văn trong đó ông đã ca tụng Thầy.</div><div style="text-align: justify;">Theo Diogene Laerce, Aristotle mắc tật nói lắp (cà lăm). Ông có đôi mắt nhỏ, đôi chân gầy còm và rất ưa thích quần áo đẹp. Khả năng làm việc của Aristotle rất lớn lao và người ta kết luận như vậy căn cứ vào số tác phẩm do ông đã viết ra. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tăng thêm số giờ làm việc, Aristotle đã nghĩ ra phương pháp sau: khi đọc sách hay lúc làm việc về khuya, ông cầm nơi tay trái một quả cầu bằng đồng ở phía trên một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rơi xuống thì tiếng động sẽ đánh thức ông dậy. Aristotle bị đau dạ dầy và để làm giảm bớt nỗi đau đớn, ông thường đeo ở trước ngực một cái bị đựng dầu đun nóng.</div><div style="text-align: justify;">Vào năm 347 khi Plato qua đời, Speusippus trở thành người đứng đầu trường Academos. Aristotle đã cùng với Xenocrates và một vài môn đệ của Plato, rời thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Plato và cũng là bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á (Asia Minor). Aristotle có cảm tình rất nhiều với Hermias và đã kết hôn cùng Pithias, người con gái nuôi của bạo chúa. Hermias cũng cảm thấy sung sướng khi được Aristotle sống ở gần mình.</div><div style="text-align: justify;">Thời bấy giờ, Hermias đang điều khiển một lực lượng giữa hai xứ hùng mạnh là Macedonia và Ba Tư. Luôn luôn bạo chúa thù nghịch với một trong hai phe kể trên, để rồi rơi vào cạm bẫy của Mentor, đại tướng người Hy Lạp đi theo Ba Tư. Hermias bị trao cho Artaxerxes và bị treo cổ. Cái chết thảm thương của Hermias đã ảnh hưởng rất lớn tới Aristotle.</div><div style="text-align: justify;">Vì không cảm thấy an toàn tại Atarneus, Aristotle đã theo lời khuyên của Theophrastus, một môn đệ, dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào năm 344. Chính tại nơi này, Aristotle đã nghiên cứu trong hai năm trường môn Sinh Học, đặc biệt là ngành Hải Sinh Học (marine biology).</div><div style="text-align: justify;">Năm 342, Aristotle được mời tới Macedonia để dạy dỗ Thái Tử Alexander khi đó mới 13 tuổi. Lời mời của Vua Philip II có thể là do lúc tuổi trẻ, Aristotle đã từng sống tại triều đình này, có thể là do danh tiếng của ông nhờ các tập Đối Thoại, nhưng cũng chính vì Aristotle đã từng liên lạc chặt chẽ với Hermias là người đã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tư. Aristotle đã ở lại Macedonia trong 7 năm. Theo như thông lệ, nhà Đại Hiền Triết đã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ Pháp, và Aristotle cũng soạn một tác phẩm của Homer để giảng cho Alexander. Aristotle đã cố gắng làm phát triển nơi Thái Tử các đức tính về điều độ và lý trí mà đối với ông, rất cần thiết cho một vương quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristotle đã soạn ra cuốn “Khảo Sát về Vương Quyền” (Traité de la Royauté) để giáo huấn Thái Tử nhưng tác phẩm này đã bị thất lạc hoàn toàn.</div><div style="text-align: justify;">Năm 340 khi vua Philip đi chinh chiến nơi xa, Thái Tử Alexander nắm giữ quyền hành. Vào thời gian này, Aristotle lập ra một ngôi trường và ông cũng giành thời giờ cho riêng mình để học hỏi thêm. Aristotle cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nơi đã bị tàn phá vài năm trước và có lẽ cũng do ông, thành phố này có một hiến pháp.</div><div style="text-align: justify;">Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi đã thay cha lên ngôi vua, vẫn lưu giữ Aristotle bên cạnh. Thái Tử luôn luôn tỏ lòng biết ơn đối với Thầy cũ bằng cách biệt đãi nhà Đại Hiền Triết trong mọi công việc. Nhưng nếu Alexander rất mến yêu Thầy thì trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di truyền kỳ lạ hình như đã gieo vào tâm hồn Thái Tử tính tự kiêu vô hạn, với một ý chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”.</div><div style="text-align: justify;">Vào năm 335 khi Đại Đế Alexander đi chinh phục châu Á thì Aristotle tự thấy rằng nhiệm vụ của mình đã chấm dứt. Ông đề nghị để người cháu tên là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Đại Đế. Alexander đã chấp nhận lời đề nghị và còn dùng Callisthenes làm sử gia theo đoàn quân viễn chinh. Aristotle là người hiểu rõ tính tình của nhà vua học trò cũ, ông đã từng nhắc nhở cháu ông phải thận trọng trong lời nói, nhưng Callisthenes đã không cản được tấm lòng bảo vệ đường lối chính trị thuần Hy Lạp trong khi Đại Đế Alexander lại tỏ ra nhượng bộ trước ảnh hưởng của châu Á. Chính vì sự bất cẩn này, Callisthenes đã bị kết án tử hình và theo lời Diogene Laerce, ông ta bị quăng cho thú dữ phân thây.</div><div style="text-align: justify;">Sau khi từ biệt Alexander, Aristotle trở lại thành Athens. Tại nơi này, Xenocrates đang điều khiển Hàn Lâm Viện Academos. Aristotle liền lập ra trường Lyceum, gần đền Apollon Lycien, vì vậy ngày nay mới có danh từ “Lycée”. Trường Lyceum là nơi tôn thờ Thần Muse, vị nữ thần chủ về Văn Chương, Nghệ Thuật và Khoa Học. Nhà trường có rất nhiều học cụ, kể cả bản đồ, lại có một thư viện rất đầy đủ. Tại ngôi trường này, Aristotle trình bày các ý tưởng và giảng giải cho học viên trong các cuộc dạo chơi ngoài vườn, vì vậy ngôi trường của Aristotle còn được gọi là “Trường Dạo Chơi” (Peritatetic school) do danh từ Peripatetic (dạo chơi) theo tiếng Hy Lạp.</div><div style="text-align: justify;">Nền giáo dục do Aristotle chủ trương gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần công khai (exoteric)(phổ biến ra bên ngoài). Nhà Đại Hiền Triết đề cập tới các câu hỏi hoàn toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng còn buổi chiều, Aristotle giảng dạy những học viên cũ về nhiều điều làm mở mang kiến thức trong đó môn Tu Từ Pháp chiếm phần lớn thời gian. Trong 12 năm liền, Aristotle vừa thuyết giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm đề cập tới hầu hết kiến thức của thời đại. Trong các năm cuối cùng sống tại Lyceum, Aristotle đã thiết lập bảng liệt kê các thế vận kỳ, cũng như lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của thành Athens mà về sau, bảng này đã được dùng làm căn bản để ấn định ngày tháng của các vở kịch Hy Lạp.</div><div style="text-align: justify;">Aristotle còn biên khảo về Hiến Pháp tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lại tác phẩm “Khảo Sát về Hiến Pháp của Thành Athens” (On the Athenian Constitution). Khi Alexander chinh phục xứ Ba Tư, Đại Đế đã cho người đem về tặng Thầy cũ các tài liệu và mẫu hải sinh vật nhờ vậy, Aristotle hoàn thành cuốn sách “Tính Chất của các Sinh Vật” (La Nature des Animaux).</div><div style="text-align: justify;">Năm 323 khi Đại Đế Alexander qua đời, cuộc sống của Aristotle cũng bị ảnh hưởng. Mặc dù Aristotle chỉ còn rất ít liên lạc với Alexander, nhất là khi người cháu của ông bị tử hình, nhưng nhà Đại Hiền Triết thường đi lại với Antipater và được viên tổng trấn này che chở. Đảng Quốc Gia thành Athens do Demosthenes lãnh đạo đã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Đại Đế Alexander không còn nữa. Aristotle nhận thấy đời sống và tài sản của mình bị đe dọa. Người ta đã tố cáo ông phạm tội bất kính (impiety) vì 20 năm trước, ông đã sáng tác một bài thơ tưởng niệm Hermias trong khi danh dự này phải giành cho Thượng Đế. Aristotle nhớ lại số phận của Socrates rồi không đợi tòa án xét xử, vì chắc chắn ông sẽ bị kết án, Aristotle rời bỏ thành Athens, trốn về quê mẹ là miền Chalcis. Ông tuyên bố “Tôi sẽ không để người Athens vi phạm Triết Học lần thứ hai” (I will not let the Athenians offend twice against Philosophy).</div><div style="text-align: justify;">Sống tại Chalcis được vài tháng, Aristotle qua đời vào năm 322 có lẽ do bệnh đau dạ dầy, một căn bệnh đã hành hạ ông trong nhiều năm trường. Ông để lại hai người con, con trai cùng tên với ông nội là Nichomachus và người con gái mang tên mẹ Pithias. Theo như lời yêu cầu, nắm xương tàn của nhà Đại Hiền Triết được chôn cất tại Stagira cùng với hài cốt của Pithias, vợ ông.</div><div style="text-align: justify;"><br />
2/ Các tác phẩm của Aristotle.</div><div style="text-align: justify;">Các tác phẩm của Aristotle được chia làm ba loại: (1) các bài viết phổ thông (popular writings), (2) các sách ghi chép (memoranda) và (3) các sách luận đề (treatises).</div><div style="text-align: justify;">Các bài viết phổ thông đa số gồm các tập đối thoại (dialogues) theo mẫu của Plato và được viết ra khi Aristotle còn cư ngụ tại trường Academos. Các công trình sáng tạo này được nhà Đại Hiền Triết gọi là các bài viết phổ biến ngoại (exoteric writings) với ý định dành cho công chúng bên ngoài trường học, hơn là các học viên của trường. Ngoại trừ một số đoạn rời rạc còn sót lại, hầu hết các tập đối thoại này đã bị thất lạc.</div><div style="text-align: justify;">Các sách ghi chép là tập hợp nhiều tài liệu khảo cứu và các sử liệu (historical records). Những sách này do Aristotle và các môn đệ của ông thực hiện với chủ đích dùng làm nguồn tư liệu cho các học giả. Giống như các bài viết phổ thông, hầu hết loại sách ghi chép đều bị thất tán. Còn lại cho tới ngày nay là các sách luận đề, được viết ra dùng làm sách giáo khoa hay lời ghi giảng (lecture notes) tại Trường Lyceum, liên quan tới mọi ngành của Kiến Thức và Nghệ Thuật. Không giống như các bài viết phổ thông, các sách luận đề chỉ được dùng cho học viên trong trường, vì vậy được gọi là các công trình phổ biến nội (esoteric works). Danh tiếng của Aristotle được căn cứ vào các công trình này và đây là các tác phẩm mà các nhà biên tập đời sau đã thu thập và xếp đặt.</div><div style="text-align: justify;">Công trình khảo cứu của Aristotle về Luận Lý (Logic) được xếp chung vào bộ tác phẩm gọi tên là Organon, có nghĩa là “cách dùng” (instrument) bởi vì đây là phương tiện (the means) để đạt được kiến thức (positive knowledge), là cách để tìm hiểu tư tưởng. Bộ Organon gồm các tác phẩm The Categories (các Loại), The Prior and Posterior Analytics (các Phân Tích trước và sau), The Topics (các Chủ Đề) và On Interpretation (Về cách Diễn Đạt).</div><div style="text-align: justify;">Aristotle là nhà triết học đầu tiên đã phân tích phương pháp nhờ đó một số định đề (propositions) được suy diễn theo luận lý là đúng, căn cứ vào một số định đề khác đã được công nhận. Ông tin rằng tiến trình suy diễn luận lý này được đặt trên một hình thức tranh luận mà ông gọi là Tam Đoạn Luận (Syllogism). Trong một tam đoạn luận, một định đề được suy diễn từ hai định đề đúng khác. Một thí dụ của lý luận này như sau: (1) mọi người đều sẽ qua đời, (2) Socrates là một con người, vì thế có thể đi tới kết luận rằng (3) Socrates sẽ qua đời.</div><div style="text-align: justify;">Tam đoạn luận đã giữ một vài trò quan trọng trong nền Triết Học sau này do tạo nên các hệ thống lý luận phức tạp hơn. Trong phép luận lý, Aristotle đã phân biệt rõ hai thứ, là biện chứng (dialectic) và phân tích (analytic). Theo nhà Đại Hiền Triết, biện chứng chỉ trắc nghiệm các ý kiến (opinions) xét theo tính nhất quán về lý luận (logical consistency), còn các công trình phân tích (analytic works) được suy diễn từ các nguyên tắc dựa trên các kinh nghiệm và quan sát rõ ràng. Đây là sự khác biệt với lập trường của Hàn Lâm Viện của Plato, nơi cho rằng biện chứng là phương pháp duy nhất thích hợp với Khoa Học và Triết Học.</div><div style="text-align: justify;">Đối với Aristotle, bản chất của thiên nhiên là thay đổi và ông đã định nghĩa môn triết học của thiên nhiên là sự khảo sát các sự vật đổi thay. Trong tác phẩm Physics (Vật Lý), Aristotle đã phân biệt “hình thể” (form) với “chất liệu” (matter) của một vật, chẳng hạn như khi một nhà điêu khắc tạc ra một bức tượng bán thân bằng đồng, chất liệu là đồng và hình thể là hình nửa người. Aristotle đã nghiên cứu các nguyên nhân (causes) của sự thay đổi và phân biệt bốn loại: (1) nguyên nhân chất liệu (material cause) là thứ mà một vật được làm ra, (2) nguyên nhân hữu hiệu (efficient cause) là hành động của nhà điêu khắc, là nguồn gốc của chuyển động (source of motion), (3) nguyên nhân hình thể (formal cause) là hình dáng bên ngoài, là loại (kind, type) để xếp hạng và (4) nguyên nhân cuối cùng (final cause) là chương trình (plan), là kiểu mẫu (design) hay mục đích của người sáng tạo hay phát minh.</div><div style="text-align: justify;">Aristotle cũng nghiên cứu chuyển động của các thiên thể qua tác phẩm On the Heavens (Về Bầu Trời) và tìm hiểu các thay đổi khi một vật được tạo ra hay bị hủy diệt. Khoa Vật Lý của Aristotle là khoa học thiên nhiên bao gồm bên trong các bộ môn Thiên Văn, Khí Tượng, Thực Vật Học và Sinh Học. Về Thiên Văn, Aristotle cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ, được tạo nên do bốn chất là đất, không khí, lửa và nước. Aristotle là nhà sinh học đầu tiên của thế giới. Trái với Plato chú trọng vào Toán Học, Aristotle đã thu thập rất nhiều mẫu động vật và thực vật, tìm hiểu các đặc tính, yếu tố liên quan. Về động vật học (zoology), Aristotle cho rằng một chủng loại tiếp tục sinh sản theo cùng một khuôn mẫu và không có cách tiến hóa.</div><div style="text-align: justify;">Aristotle tìm kiếm các nguyên tắc căn bản nhất và tổng quát nhất của kiến thức (knowledge) và sự thật (reality). Bởi vì chỉ có Thượng Đế (God) là không thay đổi, nhà Đại Hiền Triết gọi ngành nghiên cứu Thượng Đế là Thần Học (theology). Đối với ông, hai bộ môn Đạo Đức Học (ethics) và Chính Trị Học (politics) đều khảo cứu kiến thức thực tế, đây là sự hiểu biết cho phép con người hành động đúng cách và sống hạnh phúc. Qua tác phẩm đề tặng cho con trai tên là Nichomachus và được gọi tên là Nichomachean Ethics (Đạo Đức Học của Nichomachus), Aristotle đã phân tích cá tính (character) và trí thông minh (intelligence) khi những tính chất này liên quan đến hạnh phúc, và ông cho rằng một cuộc đời hạnh phúc của con người là cuộc đời làm theo lý trí (reason).</div><div style="text-align: justify;">Về chính trị, Aristotle khảo sát sự liên quan giữa lý tưởng, luật pháp, tập quán và tài sản trong các trường hợp thực tế. Ông công nhận chế độ nô lệ (slavery) nhưng nhấn mạnh rằng chủ nhân không nên lạm dụng quyền hành bởi vì chủ nhân và người nô lệ có các quyền lợi như nhau. Aristotle đã viết ra cuốn “Hiến Pháp của Thành Athens” (The Constitution of Athens) trong khi bộ sưu tập của Thư Viện Lyceum gồm 158 bản Hiến Pháp của dân Hy Lạp và các quốc gia khác nhau.</div><div style="text-align: justify;">Vài tác phẩm quan trọng khác của Aristotle là các cuốn Rhetoric (Tu Từ Pháp), Politics (Chính Trị) và Poetics (Thơ Phú). Qua tác phẩm sau cùng này, Aristotle khảo cứu bản chất của bi kịch (tragedy), lấy dẫn chứng từ bi kịch Oedipus Rex của Sophocles, và tin rằng bi kịch đã ảnh hưởng tới khán giả do gợi lên các cảm xúc như sợ hãi, thương xót, và cách tẩy sạch những xúc động này được ông gọi là “carthasis”.</div><div style="text-align: justify;"><br />
3/ Ảnh hưởng của nhà Đại Hiền Triết Aristotle.</div><div style="text-align: justify;">Sau khi nhà Đại Hiền Triết Aristotle qua đời, nền Triết Học của ông được giảng dạy tại Trường Lyceum do các môn đệ thuộc nhiều thế hệ sau. Một trong các nhà triết học này là Critolaus đã qua kinh thành Rome vào năm 155 trước Tây Lịch nhờ đó người La Mã được biết tới nền Triết Học Hy Lạp. Vào năm 50 trước TL, Andronicus người đảo Rhodes, đã ấn hành các tác phẩm của Aristotle nhờ đó nhiều học giả đã học tập và phân tích nền Triết Học kể trên, đặc biệt tại xứ Alexandria.</div><div style="text-align: justify;">Sau khi Đế Quốc La Mã suy tàn, kiến thức về nền Triết Học của Aristotle bị hầu như quên lãng, nhất là trong khoảng thời gian từ năm 500 sau TL tới thế kỷ thứ 9. Sang thế kỷ 9 này, các học giả người Ả Rập đã dịch các tác phẩm của Aristotle sang ngôn ngữ của họ và đưa chúng vào thế giới Hồi giáo. Nhà triết học người Tây Ban Nha gốc Ả Rập tên là Averroes thuộc thế kỷ 12 là học giả danh tiếng nhất, đã nghiên cứu và nhận xét về Aristotle. Qua thế kỷ 13, các tác phẩm của Aristotle lại được quan tâm do các học giả Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, và Thánh Thomas Aquinas, một trong các nhà triết học gây ảnh hưởng lớn mạnh nhất, đã dùng nền Triết Học của Aristotle làm căn bản cho các tư tưởng Thiên Chúa giáo thời đó. Dante Alighieri, nhà thơ bậc nhất của thời Trung Cổ, đã gọi Aristotle là “Bậc Thầy của những người hiểu biết”.</div><div style="text-align: justify;">Lý thuyết về ngành Động Vật Học của Aristotle đã không thay đổi và được giảng dạy tại tất cả các trường học trong nhiều thế kỷ cho tới khi nhà khoa học người Anh Charles Darwin đề cập tới Thuyết Tiến Hóa vào thế kỷ 19. Học thuyết của Aristotle cũng giữ một vai trò quan trọng trong bộ môn Thần Học và trước thế kỷ 20, môn Luận Lý (Logic) được coi là của Aristotle.</div><div style="text-align: justify;">Ảnh hưởng của các ý tưởng, học thuyết và triết học của nhà Đại Hiền Triết Aristotle đã tỏa rộng, thấm nhập vào ngôn ngữ Khoa Học và Triết Học của nhân loại, giúp ích vào công cuộc tìm hiểu kiến thức và lương tri lương tri.</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-74531001484843225292010-10-07T06:28:00.000-07:002010-10-07T06:28:57.855-07:00TRUYỀN THỐNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI<div style="text-align: justify;"></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj-8LYVPrEQp4PwoZyC1NiLVkig5M6ssMnOc6Ije_IZMPj8gTAFoBfkbTY7iZoOpOX32cRJUf9TgkMEkwS24Gm2FxUZLl06VfNDTmhMr4GRWwKcn40LGcVGmeT9afeKrUKiCAGioR1drzA/s1600/4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj-8LYVPrEQp4PwoZyC1NiLVkig5M6ssMnOc6Ije_IZMPj8gTAFoBfkbTY7iZoOpOX32cRJUf9TgkMEkwS24Gm2FxUZLl06VfNDTmhMr4GRWwKcn40LGcVGmeT9afeKrUKiCAGioR1drzA/s320/4.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN) được thành lập ngày 11 tháng 10 năm 1951 theo Nghị định 276 của Bộ Quốc gia Giáo dục. Ngày 10 tháng 12 năm 1993 theo Nghị định 97/CP của Chính phủ, trường là một trường thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Theo Quyết định 201/QĐTTg ngày 12 tháng 10 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, trường được tách khỏi Đại học Quốc gia Hà Nội và mang tên là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.<br />
Trường ĐHSPHN là trường trọng điểm, đầu ngành trong hệ thống của các trường sư phạm, là trung tâm lớn về đào tạo giáo viên và nghiên cứu khoa học và là nơi tạo nên nhiều nhân tài, nhà khoa học danh tiếng cho đất nước.<br />
Các giai đoạn lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển của trường bao gồm giai đoạn 1951-1966 (trường mang tên là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội), giai đoạn 1966-1993 (trường mang tên là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1), giai đoạn 1993-1999 (trường mang tên là Đại học Sư phạm thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội) và giai đoạn từ tháng 10 năm 1999 đến nay (trường mang tên là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Hiện nay, trường ĐHSPHN là một trong hai trường ĐHSP trọng điểm của nước ta.<br />
Quá trình hơn 50 năm xây dựng và phát triển của nhà trường gắn liền với sự phát triển của đất nước, nền giáo dục - đào tạo và nền đại học Việt Nam. Vượt lên những khó khăn, các thế hệ cán bộ quản lí, giảng viên, nhân viên, sinh viên, học sinh đã tô thắm truyền thống vẻ vang của nhà trường.<br />
Trường ĐHSPHN đã và đang phấn đấu làm tròn chức năng "máy cái của ngành giáo dục", trở thành trường chuẩn mực vừa đào tạo giáo viên các cấp có chất lượng cao vừa nghiên cứu khoa học đạt trình độ tiên tiến làm nòng cốt thúc đẩy sự phát triển của hệ thống sư phạm trong cả nước, góp phần giải quyết các vấn đề then chốt của nền giáo dục quốc dân nói chung và ngành sư phạm nói riêng.<br />
Tính đến năm 2004, trường ĐHSPHN đã đào tạo 76.300 cử nhân (41.092 cử nhân chính qui, 26.910 cử nhân tại chức, 7.624 cử nhân từ xa, 674 cử nhân thuộc các hệ khác), 3.885 thạc sĩ (580 thạc sĩ Toán-Tin, 350 thạc sĩ Vật lí, 358 thạc sĩ Hóa học, 379 thạc sĩ Sinh - Kĩ thuật nông nghiệp, 960 thạc sĩ Ngữ văn, 232 thạc sĩ Lịch sử, 205 thạc sĩ Địa lí, 703 thạc sĩ Tâm lí - Giáo dục, 28 thạc sĩ Sư phạm kĩ thuật, 4 thạc sĩ Giáo dục tiểu học và 86 thạc sĩ Giáo dục mầm non). Trường là cơ sở đào tạo sau đại học đầu tiên ở Việt Nam (bắt đầu đào tạo sau đại học từ năm 1970). Hàng năm, trường ĐHSPHN có 4.950 sinh viên chính qui, 2.000 sinh viên chuyên tu, 6.000 sinh viên tại chức, 25.000 sinh viên từ xa, 1.400 học viên thạc sĩ và 245 nghiên cứu sinh. Trường có 40 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ và 39 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ. Tính đến ngày 28 tháng 4 năm 2005, trường đã đào tạo 600 tiến sĩ (trong đó có 4 tiến sĩ khoa học) (146 tiến sĩ Ngữ văn, 106 tiến sĩ Tâm lí - Giáo dục, 83 tiến sĩ Địa lí, 80 tiến sĩ Sinh học, 52 tiến sĩ Lịch sử, 47 tiến sĩ Hóa học, 45 tiến sĩ Toán - Tin, 36 tiến sĩ Vật lí và 5 tiến sĩ Sư phạm kĩ thuật). Luận án tiến sĩ đầu tiên được bảo vệ ngày 23 tháng 4 năm 1970, luận án tiến sĩ thứ 100 được bảo vệ ngày 10 tháng 4 năm 1992, luận án tiến sĩ thứ 200 được bảo vệ ngày 12 tháng 10 năm 1995, luận án tiến sĩ thứ 300 được bảo vệ ngày 8 tháng 5 năm 1997, luận án tiến sĩ thứ 400 được bảo vệ ngày 19 tháng 1 năm 2001, luận án tiến sĩ thứ 500 được bảo vệ ngày 12 tháng 9 năm 2002 và lụân án tiến sĩ thứ 600 được bảo vệ ngày 28 tháng 4 năm 2005. <br />
Theo “Thống kê Giáo dục và Đào tạo năm học 2004-2005” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm học 2004-2005 trường ĐHSPHN tuyển mới 992 học viên cao học; có tổng cộng 218 nghiên cứu sinh và 1.677 học viên cao học; số người được cấp bằng tiến sĩ là 31 và số người được cấp bằng thạc sĩ là 589; tổng số sinh viên của trường là 57.946 (6.957 sinh viên hệ chính qui, 1.454 sinh viên liên kết đại học chính qui, 2354 sinh viên hệ chuyên tu, 10.733 sinh viên hệ tại chức, 36.448 sinh viên của các hệ khác) và số tuyển mới là 17.959 (1.951 sinh viên hệ chính qui, 977 sinh viên hệ chuyên tu, 2.187 sinh viên hệ tại chức và 12.844 sinh viên của các hệ khác); số sinh viên tốt nghiệp đại học là 6.250; số giảng viên là 807; tổng số cán bộ quản lí, giảng viên và nhân viên là 1.227 (807 giảng viên trong đó có 609 giảng viên biên chế, 70 giảng viên hợp đồng dài hạn, 362 nữ giảng viên, 24 GS, 126 PGS, 227 TSKH và TS, 177 ThS, 19 Nhà giáo Nhân dân và 74 Nhà giáo Ưu tú; giảng đường có tổng diện tích là 19.760 m2 và 181 phòng; phòng máy tính có tổng diện tích là 2.812 m2 và 36 phòng; thư viện có tổng diện tích là 6.334 m2 và 31 phòng; phòng thí nghiệm có tổng diện tích là 2.545 m2 và 38 phòng. <br />
Theo Báo cáo tổng kết năm học 2004-2005 của trường ĐHSPHN, trường có 6.983 sinh viên hệ chính qui trong đó có 1.453 sinh viên hệ chính qui theo địa chỉ, 46.768 sinh viên hệ không chính qui trong đó có 31.912 sinh viên hệ từ xa và 16.856 sinh viên hệ tại chức. Số sinh viên hệ chính qui tốt nghiệp đại học là 1.062 (tỉ lệ tốt nghiệp đại học là 92,59%, tỉ lệ tốt nghiệp loại giỏi là 11,68%, tỉ lệ tốt nghiệp loại khá là 59,04%, tỉ lệ tốt nghiệp loại trung bình khá là 29,2% và tỉ lệ tốt nghiệp loại trung bình là 0,09%). Trường tuyển mới 72 nghiên cứu sinh, 950 học viên cao học, 210 học viên dự án và mở một số lớp bồi dưỡng cấp chứng chỉ sau đại học. Có 80 nghiên cứu sinh bảo vệ luận án tiến sĩ cấp Nhà nước, 659 học viên cao học bảo vệ luận văn thạc sĩ và 300 học viên được cấp chứng chỉ bồi dưỡng sau đại học. <br />
Trong quá trình xây dựng và phát triển, đặc biệt là trong thời kì đổi mới, trường ĐHSPHN đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, được xã hội tín nhiệm và đánh giáo cao. Từ năm 1996 đến nay, trường đã tuyển được nhiều học sinh giỏi và đã đào tạo các cử nhân khoa học tài năng tại 7 khoa là khoa Toán, khoa Vật lí, khoa Hóa học, khoa Sinh - KTNN, khoa Ngữ văn, khoa Lịch sử và khoa Địa lí. Một số sinh viên của hệ đào tạo cử nhân khoa học tài năng được cử đi học nước ngoài. Nhiều sinh viên của trường đạt giải cao trong các kì thi Olympic về khoa học cơ bản và khoa học giáo dục. Hầu hết các cử nhân khoa học tài năng là nguồn cán bộ trẻ cho nhà trường và các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu và trường trung học phổ thông.<br />
Một yếu tố quan trọng để bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học là cơ sở vật chất kĩ thuật. Cơ sở vật chất kĩ thuật của trường ngày càng được tăng cường. Nhà trường đã có đủ giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, cơ sở thực tập và phương tiện kĩ thuật phục vụ cho dạy và học. Nhà trường đã tạo ra môi trường xanh, sạch, đẹp và lành mạnh. Trường ĐHSPHN kiên trì thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "... làm thế nào để nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là trường mô phạm của cả nước".<br />
Trường ĐHSPHN là đơn vị trọng điểm trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học giáo dục của ngành. Trường có hơn 2.000 công trình nghiên cứu khoa học. Trong giai đoạn 1996-2003, trường có trên 600 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ trong đó có 178 đề tài thuộc các chương trình trọng điểm quốc gia, 11 đề tài đặc biệt cấp Bộ, 3 đề tài trọng điểm cấp Bộ,... Nhiều nhà khoa học của trường trở thành các nhà khoa học tầm cỡ quốc gia và quốc tế và được nhận các Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước. Trong năm học 2004-2005, trường đã tiến hành nghiệm thu 135 đề tài nghiên cứu khoa học trong đó có 26 đề tài cấp Nhà nước, 44 đề tài cấp Bộ và 65 đề tài cấp Trường. Hiện nay, trường đang triển khai 172 đề tài nghiên cứu khoa học trong đó có 26 đề tài cấp Nhà nước, 77 đề tài cấp Bộ, 113 đề tài cấp Trường trong đó có 25% số đề tài phục vụ đổi mới phương pháp đào tạo. Các đề tài bao gồm các lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng sản xuất phục vụ đời sống và khoa học sư phạm phục vụ đổi mới phương pháp đào tạo cử nhân chất lượng cao và sau đại học. Trường kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học thông qua hướng nghiên cứu gắn với các đề tài luận án. Kinh phí cấp cho nghiên cứu khoa học ngày một tăng. Từ kinh phí nghiên cứu hàng năm khoảng 400 triệu đồng đến nay là xấp xỉ 8 tỉ đồng. Đó là chưa kể đến kinh phí cho các dự án, chương trình nghiên cứu như Dự án Phòng thí nghiệm Hóa - Công nghệ sinh học (hơn 29 tỉ đồng), Dự án nghiên cứu vùng sinh thái- kinh tế sông Đà (3 tỉ đồng), Dự án Sida (3 tỉ đồng), Dự án tăng cường trang thiết bị cho Viện Nghiên cứu sư phạm (3 tỉ đồng), Dự án lưu trữ gen (200 triệu đồng), Dự án phát triển giống lúa đột biến (300 triệu đồng), Chương trình ứng dụng công nghệ thông tin (500 triệu đồng),… Kinh phí đầu tư trang thiết bị hàng năm phục vụ cho nghiên cứu và đào tạo khoảng 3 đến 4 tỉ đồng trong đó ưu tiên đầu tư trọng điểm cho một số phòng thí nghiệm quan trọng. Trường còn triển khai nghiên cứu đưa công nghệ thông tin và giáo dục môi trường vào các trường phổ thông (xây dựng hơn 100 phần mềm đổi mới phương pháp dạy và học, tổ chức lớp học và cấp 500 chứng chỉ bồi dưỡng công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên của 44 Sở Giáo dục và Đào tạo, tổ chức lớp học và cấp 350 chứng chỉ Giáo dục môi trường cho học viên của 40 Sở Giáo dục và Đào tạo, mở 20 lớp bồi dưỡng về công nghệ thông tin cho cán bộ trong toàn trường). <br />
Nhờ có đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu hùng hậu, Trường ĐHSPHN có thể xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình có chất lượng cao nhằm phục vụ yêu cầu đào tạo của trường và cung cấp cho ngành sư phạm. Hai phần ba số tác giả biên soạn sách giáo khoa phổ thông là cán bộ của trường. Từ năm 1996 đến năm 2003, trường đã biên soạn 223 đầu sách giáo trình và tài liệu tham khảo. Nhà xuất bản ĐHSP của trường tuy mới thành lập nhưng đã xuất bản 147 đầu sách với số lượng hàng vạn bản. Nhà trường rất chú trọng và đẩy mạnh chương trình đổi mới phương pháp dạy và học, sử dụng công nghệ thông tin trong quá trình quản lí và giảng dạy. Trong năm học 2004-2005, trường đã xuất bản 112 giáo trình cho các hệ chính qui và không chính qui. Để phục vụ nhiệm vụ cải cách giáo dục của Bộ, trong 2 năm 2004 -2005 các cán bộ của trường đã biên soạn 17 bộ sách giáo khoa THPT phân ban của các lớp 11 và 12, đóng góp ý kiến cho chương trình và sách giáo khoa THPT thí điểm, biên soạn và thẩm định tài liệu bồi dưỡng thay sách giáo khoa lớp 12 phân ban thí điểm, phối hợp với Bộ tổ chức hội thảo về chương trình và sách giáo khoa phân ban, biên soạn và thẩm định tài liệu bồi dưỡng thay sách giáo khoa lớp 12 phân ban thí điểm và tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực giáo viên của các tỉnh miền núi. <br />
Trường ĐHSPHN là một trong những trường có thành tích xuất sắc trong đào tạo tài năng trẻ cho đất nước. Hệ trung học phổ thông chuyên đã đào tạo gần 2.000 học sinh tốt nghiệp phổ thông loại giỏi và xuất sắc. Có 36 học sinh đoạt Huy chương (10 Huy chương Vàng, 17 Huy chương Bạc và 11 Huy chương Đồng) tại các kì thi Olympic quốc tế. Đặc biệt là liên tục từ năm 1999 đến nay, năm nào trường cũng có học sinh đoạt Huy chương Vàng Olympic quốc tế và khu vực châu Á-Thái Bình Dương. <br />
Trường ĐHSPHN cũng là trường có thành tích cao trong phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học. Liên tục từ năm 1998 đến nay, trường đều có sinh viên đạt giải cao. Năm 2003 trường có hơn 600 công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trường đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ghi nhận là một trong những đơn vị đạt thành tích xuất sắc trong phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học. Trong 10 năm trở lại đây, trường có 8 giải Nhất, 11 giải Nhì, 6 giải Ba, 20 giải Khuyến khích cấp Bộ của sinh viên nghiên cứu khoa học. Trường là một trong 7 trường đại học có thành tích sinh viên nghiên cứu khoa học cao nhất trong cả nước. <br />
Nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ trẻ. Chỉ trong những năm 1999 - 2005 trường đã kết nạp 325 đảng viên trong đó có 200 đảng viên là sinh viên và học viên sau đại học. Một số cán bộ của trường đã trở thành những cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước.</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-1144987071159468562010-10-07T06:15:00.000-07:002010-10-07T06:30:07.881-07:00RÈN LUYỆN, NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG - MỘT NỘI DUNG QUAN TRỌNG TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY<div align="right" class="separator" style="clear: both; text-align: right;"></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEggihD7QFYs29xZo8sWzGLKjIwCTIz-BGm_nKYo0XZEEXrRQq2fjWlcrG4MNbqFOfVqLVuWLRTFB0F2fmdTSYOwF56JO5EQyt9rn_gzU5_eVH2fz7Sx9wYTHt7toJYsJI0-LTNi9ba5fOE/s1600/3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEggihD7QFYs29xZo8sWzGLKjIwCTIz-BGm_nKYo0XZEEXrRQq2fjWlcrG4MNbqFOfVqLVuWLRTFB0F2fmdTSYOwF56JO5EQyt9rn_gzU5_eVH2fz7Sx9wYTHt7toJYsJI0-LTNi9ba5fOE/s320/3.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><strong><em>Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Về nâng cao chất lượng đảng viên, Nghị quyết Đại hội X của Đảng yêu cầu: "lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao". Như vậy, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng hàng đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.</em></strong></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Khi chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng, năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề lên trang đầu Tư cách một người cách mệnh, và nhấn mạnh sự: cần kiệm, cả quyết sửa lỗi mình, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, ít lòng tham muốn về vật chất... Trải qua 30 năm Đảng lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Trước khi đi xa, Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Về nâng cao chất lượng đảng viên, Nghị quyết Đại hội X của Đảng yêu cầu: "lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao"(1). Như vậy, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng hàng đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.</div><div style="text-align: justify;">Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi xây dựng hoàn chỉnh cả cơ sở hạ tầng quan hệ kinh tế, lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng chính trị, pháp luật, tư tưởng, đạo đức. Nhất thiết phải hình thành và phát triển đạo đức mới, đạo đức của giai cấp vô sản cách mạng. Đạo đức cộng sản góp phần vào sự nghiệp sáng tạo chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. V.I.Lê-nin cho rằng: "Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới..."(2). </div><div style="text-align: justify;">Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, chủ nghĩa thực dân "đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập"(3). Người cũng đã sớm nhận thấy những biểu hiện thoái hóa, biến chất trong một số đảng viên, cán bộ nắm bộ máy chính quyền. Trong thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ những lầm lỗi chính là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.</div><div style="text-align: justify;">Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước. Mọi việc làm tốt hay xấu của đảng viên đều ảnh hưởng đến sự nghiệp cách mạng của giai cấp, của dân tộc, cuộc sống của nhân dân. "Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân"(4). </div><div style="text-align: justify;">Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập nội dung đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Trí là vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Hồ Chí Minh khẳng định "Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Người nhấn mạnh: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân"(5). </div><div style="text-align: justify;">Cùng với việc giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên, cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mọi người tránh xa mọi thói hư tật xấu. Người cho rằng, những người có thói hư tật xấu là do chủ nghĩa cá nhân. "Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm"(6). Do chủ nghĩa cá nhân mà mắc vào bệnh: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ và những bệnh khác như "hữu danh vô thực", kéo bè kéo cánh, bệnh cận thị không trông xa thấy rộng, bệnh "cá nhân", v.v...</div><div style="text-align: justify;">Trước lúc đi xa, trong bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đăng báo Nhân Dân ngày 3-2-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở trong Đảng ta bên cạnh rất nhiều đảng viên tốt vẫn "còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém". Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân. "Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ". "Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân"(7). </div><div style="text-align: justify;">Ở mỗi thời kỳ đấu tranh cách mạng, những nội dung cơ bản đó lại được cụ thể hóa sát hợp với yêu cầu do nhiệm vụ chính trị đặt ra. Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên không chỉ là vấn đề riêng của mỗi cá nhân mà ngày càng trở thành nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.</div><div style="text-align: justify;">Công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ 1986 đặt ra những yêu cầu rất cao về năng lực lãnh đạo và phẩm chất đạo đức của mỗi tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Phải khẳng định rằng, đa số cán bộ, đảng viên của Đảng hoạt động trong hệ thống chính trị và mọi lĩnh vực đã đáp ứng nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới. Đó là một trong những nguồn gốc làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới.</div><div style="text-align: justify;">Tuy nhiên, Đảng ta cũng sớm nhận thấy rằng, trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân tố phức tạp, kể cả sự chống phá của các thế lực thù địch, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân và phẩm chất, đạo đức cộng sản đứng trước những thách thức mới. Đứng trước bước chuyển này Đảng cũng chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức đối với cán bộ, đảng viên. "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống. Một số thoái hóa về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu"(8). Đại hội IX của Đảng (4-2001) cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến"(9). Nghị quyết Đại hội X của Đảng đánh giá: Cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu và nêu rõ: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng"(10).</div><div style="text-align: justify;">Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong những năm đổi mới đã được các Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương nhìn nhận một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Có thể quy lại ba nguyên nhân chính của tình trạng đó. Một là, do tác động của nhiều nhân tố phức tạp trong điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường, mở cửa với bên ngoài. Hai là, công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên của các tổ chức đảng chưa được chú ý đúng mức, thậm chí còn buông lỏng. Ba là, không ít cán bộ, đảng viên mang nặng chủ nghĩa cá nhân, không chịu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống.</div><div style="text-align: justify;">Để chặn đứng đà suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, một mặt, phải chủ động phòng ngừa những tác động tiêu cực từ bên ngoài; mặt khác, chủ yếu và quan trọng và phải tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nghiêm túc tự rèn luyện, tự mình nâng cao đạo đức cách mạng.</div><div style="text-align: justify;">Đạo đức cách mạng chứa đựng nội dung lớn, căn bản và hoàn toàn có thể thực hiện tốt nếu mỗi người chú trọng tu dưỡng rèn luyện. Tuân theo những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta trong công cuộc đổi mới, có thể hiểu đạo đức cách mạng hiện nay trên mấy điểm chính sau đây:</div><div style="text-align: justify;">- Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu hết sức mình cho sự thắng lợi, sự phát triển của công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. </div><div style="text-align: justify;">- Hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân, trung với nước, hiếu với dân, đặt lợi ích của cách mạng, của đất nước và nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, theo nguyên tắc "Dĩ công vị thương".</div><div style="text-align: justify;">- Thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Không tham nhũng, xâm phạm tài sản của Nhà nước và nhân dân, không lãng phí. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, cương lĩnh, kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. </div><div style="text-align: justify;">- Ra sức học tập, rèn luyện không ngừng nâng cao trình độ, năng lực công tác, giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh. Đề cao tự phê bình và phê bình nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.</div><div style="text-align: justify;">- Gương mẫu trong mọi việc, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, đoàn kết, thân ái, nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, thương yêu nhân dân.</div><div style="text-align: justify;">Để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên, có thể và cần phải tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu:</div><div style="text-align: justify;">Thứ nhất, phải coi trọng nhiệm vụ giáo dục cho cán bộ, đảng viên về đạo đức, phẩm chất, lối sống. Nếu trong xã hội, trong hệ thống nhà trường phổ thông và đại học phải coi trọng giáo dục luân lý, đạo đức cho mọi tầng lớp, cho thế hệ trẻ, thì trong Đảng và bộ máy hệ thống chính trị phải đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong hệ thống trường đào tạo cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân nhất thiết phải có môn học về đạo đức cách mạng. Đồng thời, cần tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên qua sinh hoạt ở tổ chức đảng. Trong sinh hoạt chi bộ và cấp ủy không chỉ có phần đánh giá công việc, mà còn phải kiểm điểm, đánh giá về đạo đức cán bộ. "Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ cao cấp"(11). Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII, nhấn mạnh: Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Nghị quyết Đại hội X của Đảng cũng nêu rõ, cần làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên.</div><div style="text-align: justify;">Thứ hai, tăng cường vai trò, hiệu lực của kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước, tập trung chỉ đạo đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có hiệu quả. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là một vấn nạn gây nhức nhối trong xã hội hiện nay. Những tệ nạn đó vừa vi phạm luật pháp của Nhà nước, vừa là những hành vi vô đạo đức. Nhà nước đã từng ban hành pháp lệnh và phát triển thành luật phòng ngừa và chống tham nhũng, lập ra các cơ quan chống tham nhũng. Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII xác định rõ: "Các cấp ủy đảng và người đứng đầu các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở phải chịu trách nhiệm chống tham nhũng ở nơi mình phụ trách. Bộ Chính trị phân công một số ủy viên Bộ Chính trị, các cấp ủy phân công ủy viên Ban Thường vụ trực tiếp chỉ đạo chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Khi xảy ra tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực ở địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị mình phụ trách thì tùy theo mức độ và tính chất vi phạm của vụ việc mà xem xét hình thức kỷ luật đối với cấp ủy và người đứng đầu về chế độ trách nhiệm". "Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp cùng với các cơ quan thanh tra, điều tra, kiểm sát, tòa án phải nắm chắc tình hình và khẩn trương kiểm tra, kết luận, xử lý kịp thời đúng pháp luật những đơn tố cáo về đạo đức, lối sống tiêu cực của cấp ủy viên và người đứng đầu các cơ quan, trước hết đối với Ủy viên Trung ương, trưởng ban, bộ trưởng, bí thư cấp ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị"(12). Đó là những biện pháp rất cần thiết và mạnh mẽ cần được thực hiện triệt để.</div><div style="text-align: justify;">Thứ ba, cần tăng cường tuyên truyền, học tập những tấm gương về đạo đức cách mạng, xây dựng, bồi đắp cái tốt, cái đúng trong hành vi đạo đức, biểu dương người tốt, việc tốt, lên án cái xấu, cái ác một cách cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói nhiều về đạo đức của người cách mạng mà bản thân cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng và cao đẹp. Cần phải xây dựng kế hoạch tuyên truyền, học tập đạo đức Hồ Chí Minh. Cần phải nhận thức rằng, đạo đức của Bác không phải là cái gì cao siêu, xa vời, chỉ để chiêm ngưỡng, ca ngợi, mà đạo đức đó rất thiết thực, cụ thể, mọi người đều có thể học tập và làm theo. Nhiều tấm gương trong sáng về đạo đức cách mạng của các đồng chí lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng qua các thời kỳ cần được tuyên truyền học tập. Tấm gương Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc và biết bao đồng chí khác là biểu hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đạo đức cao đẹp không chỉ thế hệ trẻ mà mọi cán bộ, đảng viên cần phải đọc, suy ngẫm và hành động cho xứng đáng. Trong công cuộc đổi mới cũng có rất nhiều cán bộ, đảng viên tiêu biểu, nêu cao đạo đức, thật sự vì nước, vì dân. Trong sinh hoạt đảng, đoàn thể, cơ quan, trường học, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội cần nêu gương và học tập những tấm gương tiêu biểu đó. Cần có nhiều cuốn sách viết về những "người tốt, việc tốt". Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng rất quan tâm đến sách "người tốt, việc tốt". Các phương tiện thông tin đại chúng cũng cần tăng cường hơn chuyên mục về những tấm gương đạo đức cách mạng trong quá khứ và hiện tại. Phải tập trung động viên, cổ vũ cái tốt, cái đúng, cái cao thượng để đẩy lùi cái xấu, cái sai, cái thấp hèn.</div><div style="text-align: justify;">Dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống văn hiến. Ngoài yếu tố về văn hóa, học thức, trí tuệ, biết sống đẹp, ưa chuộng và tôn vinh cái đẹp, văn hiến còn hàm chứa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Cũng cần tổng kết làm rõ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc để quảng bá trong mọi tầng lớp xã hội, làm cho xã hội ngày càng trong sạch, lành mạnh. Bác Hồ căn dặn: phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải thấm nhuần đạo đức cách mạng. Đạo đức trong xã hội và đạo đức cách mạng trong Đảng có ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau. Giữ gìn đạo đức tốt trong Đảng có ảnh hưởng trực tiếp tới đạo đức trong xã hội và ngược lại. Mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng văn minh, xã hội văn minh nghĩa là giữ gìn, bồi dưỡng đạo đức thật tốt đẹp. Một công dân, một cán bộ, đảng viên có văn hóa nghĩa là phải có đạo đức cao đẹp. Vì thế, việc rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân là một nội dung quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cũng là nội dung quan trọng trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà toàn Đảng, toàn dân ta đang tiến hành.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
--------------------------------------------------------------------------------</div><div style="text-align: justify;">(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 133(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t 41, tr 369(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 4, tr 8(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 254(5), (6) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 252 - 253, 255(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t 12, tr 439(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 137(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 76(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, đã dẫn, tr 65(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, đã dẫn, tr 142(12) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2), Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 29-30</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><strong>PGS, TS, Nguyễn Trọng Phúc</strong></div><div style="text-align: right;"><br />
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"></div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-51782574612269605682010-10-07T06:07:00.000-07:002010-10-07T06:22:21.717-07:00TÍNH THỜI ĐẠI TRONG SỰ PHÂN TÍCH CỦA V.I.LÊNIN VỀ Ỹ NGHĨA LỊCH SỬ TOÀN THẾ GIỚI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI<div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhp0uHP4vmsntxB9agw304Xncwbr47XS-eEZQgqYonVEH2-A7HtGo7TH38Dc62xCWk8STWQ3IeVX5BuLauQWR64A8BLSlcthmU79rkhQYRZo_sMOBGxnfHg4gu49pL6KEUCxmSxc3MfnA/s1600/2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="243" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhp0uHP4vmsntxB9agw304Xncwbr47XS-eEZQgqYonVEH2-A7HtGo7TH38Dc62xCWk8STWQ3IeVX5BuLauQWR64A8BLSlcthmU79rkhQYRZo_sMOBGxnfHg4gu49pL6KEUCxmSxc3MfnA/s320/2.jpg" width="320" /></a></div><div align="justify"></div><div align="justify"><br />
</div><div align="justify"><br />
</div><div align="justify"><span style="letter-spacing: -0.1pt;"><span style="font-size: small;"><em><strong>Vladimir Ilyich Lenin, tên khai sinh là Vladimir Ilyich Ulyanov, còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Lenin (22 tháng 4 năm 1870 – 21 tháng 1 năm 1924) là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Karl Marx (1818 - 1883) và Friedrich Engels.</strong></em></span></span></div><div align="justify"><span style="letter-spacing: -0.1pt;"><span style="font-size: small;"><em><strong>Ông sinh tại làng Gorki, Simbirsk, nay là Ulyanovsk. Tên họ thật là Vladimir Ilyich Ulyanov. Lenin là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và thành lập nước Nga Xô Viết.</strong></em></span></span></div><div align="justify"><span style="letter-spacing: -0.1pt;"><span style="font-size: small;"><em><strong>Ông mất tháng 1 năm 1924, thi hài được lưu giữ trong lăng Lenin trên Quảng trường Đỏ, Moskva. Ông được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 nhân vật ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 20.</strong></em></span></span></div><div align="justify"><br />
</div><div align="justify"><br />
</div><div align="justify">Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử loài người, tác động mạnh mẽ và sâu rộng đến tiến bộ xã hội hơn bất kỳ một sự kiện lịch sử nào. Cách đây 85 năm, "một thời đại mới trong lịch sử thế giới" đã được mở ra. "Cái ngày vĩ đại ấy càng cách xa chúng ta, thì ý nghĩa cuộc cách mạng vô sản ở Nga càng trở nên rõ rệt, chúng ta cũng càng suy nghĩ sâu về toàn bộ kinh nghiệm thực tiễn của công tác của chúng ta"(1). Sự khẳng định trên đây của Lênin đã được chứng minh bởi sự nhận thức ngày càng sâu sắc về ý nghĩa quốc tế, ý nghĩa vạch thời đại của cuộc Cách mạng tháng Mười. Hàng năm, nhân loại tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới tưng bừng tổ chức kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng "cách tốt nhất để kỷ niệm cuộc cách mạng vĩ đại này là tập trung sự chú ý vào những nhiệm vụ chưa hoàn thành của cách mạng. Cách kỷ niệm này là thoả đáng và cần thiết, nhất là khi còn có những vấn đề cơ bản mà cách mạng chưa giải quyết xong, và để giải quyết những vấn đề đó, thì phải thấm nhuần được một cái gì mới (nhìn theo quan điểm những cái mà cho tới nay cách mạng đã thực hiện được)"(2).</div><div align="justify"> Với những chỉ dẫn hết sức sắc bén khoa học như vậy, ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Cách mạng tháng Mười dưới sự phân tích của Lênin đến nay vẫn còn mang tính thời đại to lớn. Điều hiển nhiên là sự phân tích dù có sâu sắc đến mấy rốt cuộc cũng chỉ phản ánh được tương đối về cái hiện thực sinh động mà Cách mạng tháng Mười đã vạch ra, về tính thời đại và ý nghĩa quốc tế của nó. Thế nhưng ở Lênin, hơn 80 năm sau Cách mạng tháng Mười, chúng ta vẫn thấy được sự sinh động sôi sục của những ngày tháng sau cách mạng trong từng câu chữ của Người.</div><div align="justify"> Cách mạng tháng Mười "chưa hoàn thành" những nhiệm vụ lịch sử gì?, chưa giải quyết xong "những vấn đề cơ bản" nào?... Đó là câu hỏi "để thấm nhuần được cái gì mới" cho tới nay, nhân loại tiến bộ vẫn đang phải tìm lời giải đáp.</div><div align="justify"> Trong lúc tiến bộ xã hội đang cố gắng tìm câu trả lời cho những vấn đề đó, chúng ta hãy tạm thời tập trung chú ý vào những nhiệm vụ mà Cách mạng tháng Mười đã hoàn thành, đã giải quyết xong, để qua đó thấy được ý nghĩa thời đại của cuộc cách mạng vĩ đại này.</div><div align="justify"> Sự phân tích khái quát nhất của Lênin về Cách mạng tháng Mười và ý nghĩa của nó được Người trình bày tại lễ kỷ niệm lần thứ tư: "Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu việc xây dựng nhà nước xô - viết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa"(3).</div><div align="justify">Nêu lên tính tất yếu lịch sử của các cuộc Cách mạng, Lênin chỉ rõ: "Cách mạng không diễn ra theo lối đặt hàng, người ta không định trước được cách mạng nổ ra vào lúc này lúc nọ, cách mạng chín muồi trong quá trình phát triển lịch sử và nó bùng nổ vào lúc mà hàng loạt những nguyên nhân ở trong nước và ở nước ngoài quyết định"(4). Bởi thế, với cách mạng Nga, "phải thấy rõ được bản chất, tính chất cơ bản của chủ nghĩa tư bản và xã hội tư bản, sự phát triển tất yếu của chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản", và "thấy được bản chất của chủ nghĩa đế quốc và các cuộc chiến tranh đế quốc làm cho chủ nghĩa tư bản mau chóng đi đến sụp đổ và làm cho cách mạng vô sản trở thành vấn đề trước mắt"(5).</div><div align="justify"> Nguyên nhân sâu xa của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga là ở chỗ nước Nga đã phải chịu đựng cái ách dã man nhất, ách của Nga hoàng và không một nước nào bị chiến tranh giày vò và làm cho kiệt quệ như nước Nga. Hơn nữa, bản thân nhân dân (công - nông- binh sĩ) "đã phải chịu đựng những hậu quả của chiến tranh, đã thấy sự bế tắc trong xã hội cũ và thấy bọn tư bản đã dùng hết những thành tựu tuyệt vời của kỹ thuật và văn hoá để gây ra cuộc chiến tranh huỷ diệt và con người đã trở nên hung ác, dã man và đói khổ. Đó là điều mà bọn tư bản đã làm và vì thế cho nên vấn đề đặt ra với chúng ta là: hoặc chết, hoặc phá đến tận gốc rễ cái xã hội tư sản cũ đó"(6).</div><div align="justify"> Cuộc Cách mạng nổ ra chứng minh chân lý có áp bức tất phải có đấu tranh, sự áp bức tàn bạo của CNTB không thể cứu xã hội tư sản khỏi những tàn lửa từ những đám mây của giai cấp vô sản rơi xuống mái nhà của chúng, càng "không thể dùng một vạn lý trường thành nào để ngăn cách khỏi nước Nga" một cuộc cách mạng làm cho CNTB phải sụp đổ.</div><div align="justify"> Tính thời đại, ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Cách mạng tháng Mười là ở chỗ: </div><div align="justify">1. Cuộc Cách mạng tháng Mười nổ ra và thắng lợi đã chấm dứt lịch sử các giai cấp bóc lột kế tiếp nhau thống trị ở nước Nga, chấm dứt thời kỳ đen tối dài dằng dặc của nhân dân lao động Nga, chấm dứt thời đại CNTB áp bức bóc lột toàn thế giới, lần đầu tiên "đã bẻ gãy xiềng xích của chiến tranh đế quốc chủ nghĩa"</div><div align="justify">Cách mạng tháng Mười đã "chứng tỏ rằng do hoàn cảnh không có lối thoát của toàn thể nhân loại sau chiến tranh mà đã nảy sinh ra cuộc cách mạng đó, và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trở thành vô địch"(7).</div><div align="justify"> Cách mạng đã chỉ rõ rằng "chiến tranh nhất định sẽ đưa toàn xã hội tư sản đến chỗ tan dã, chiến tranh đang biến thành một cuộc chiến tranh của những người lao động chống bóc lột" và "khi giai cấp vô sản có thể thoát được các tai hoạ khủng khiếp của cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa và đã có thể xây dựng lên một toà lâu đài cách mạng xã hội chủ nghĩa trên đống điêu tàn của cái kiến trúc mà nó đã phá huỷ thì nhất định nó sẽ thắng"(8).</div><div align="justify"> Cách mạng tháng Mười cũng đã chứng tỏ: "Chủ nghĩa đế quốc thế giới không ra khỏi cuộc chiến tranh hiện đại, nếu không có một hoạt động cách mạng, cuộc chiến tranh đó chỉ kết thúc bằng thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội mà thôi"(9). Đây là một sự chỉ dẫn sâu sắc và xác đáng của Lênin cho những dân tộc bị áp bức và phụ thuộc trên thế giới thoát khỏi cuộc chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc để đứng lên xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.</div><div align="justify"> Cách mạng tháng Mười là một cuộc cách mạng diễn ra hết sức nhanh chóng và ít đổ máu nhất trong lịch sử loài người. Chỉ "trong vòng có vài ngày đã lật đổ được chế độ quân chủ, trong có vài tháng đã thủ tiêu được tất cả mọi mưu toan thoả hiệp với giai cấp tư sản, và trong có vài tuần đã đập tan được sự phản kháng của giai cấp tư sản trong cuộc nội chiến"(10).</div><div align="justify"> Cách mạng tháng Mười đã nêu lên một sự thật, mà "sự thật vẫn là sự thật, từ hàng trăm, hàng nghìn năm nay, đây là lần đầu tiên mà lời hứa "đáp lại" cuộc chiến tranh chống bọn chủ nô bằng một cuộc cách mạng của những người nô lệ chống bọn chủ nô đủ loại, lời hứa ấy đã được thực hiện một cách triệt để và đang tiếp tục được thực hiện bất chấp mọi khó khăn"(11).</div><div align="justify"> Cách mạng tháng Mười khẳng định người dân Nga "có quyền tự hào và sung sướng là người đầu tiên vật ngã, ở một góc của quả đất, con thú dữ ấy là chủ nghĩa tư bản, nó đã dìm thế giới trong máu, đã làm cho loài người lâm vào tình cảnh đói rét và dã man, nhưng dù trong cơn giãy chết, nó có hung hãn quái ác và tàn bạo đến đâu đi nữa, thì cuối cùng nó cũng nhất định bị tiêu diệt và đang sắp bị tiêu diệt"(12).</div><div align="justify"> Hơn 80 năm sau sự vật ngã của con thú dữ CNTB, nó lại có thể ngóc đầu lên được nhờ sự đổi mới và thích ứng với những hình thức bóc lột mới. Nắm trong tay những nguồn lực khổng lồ về kinh tế, tài chính, khoa học, kỹ thuật, công nghệ,…, nhưng CNTB không phải là chế độ xã hội cho phép khắc phục được tất cả những vấn đề toàn cầu hiện nay. Nó vẫn đẩy thế giới "vào tình cảnh đói rét và dã man", vẫn dìm thế giới trong máu của các cuộc chiến tranh, xâm lược và can thiệp thô bạo. Mỗi bước đi của nó lại càng dấn sâu hơn vào những mâu thuẫn nội tại cực kỳ nan giải và càng đẩy tới xu thế tự phủ định. Theo lời đoán định của Lênin thì CNTB ngày nay cũng "đang sắp bị tiêu diệt", bởi theo quy luật khách quan của lịch sử, CNTB đang tạo ra những tiền đề khách quan ngày càng nhiều hơn cho CNXH và sớm muộn nó cũng sẽ được thay thế bằng một chế độ xã hội mới cao hơn, đó là chủ nghĩa xã hội. Điều đó chứng tỏ Cách mạng tháng Mười đã mở đầu lịch sử giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động nước Nga vùng lên làm chủ vận mệnh của mình, mở đầu kỷ nguyên tràn đầy ánh sáng tự do trên một đất nước rộng lớn bao la, từ vùng Đông Âu qua suốt bề ngang lục địa châu Á đến tận Thái Bình Dương, mở ra cho toàn thế giới thời đại mà nội dung cơ bản là sự quá độ từ CNTB lên CNXH. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã chiếu rọi lịch sử của các dân tộc, tạo nên một thời đại mới, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và sụp đổ của CNTB.</div><div align="justify">2. Khẳng định sức mạnh tự giải phóng của quần chúng nhân dân và Cách mạng đã đưa họ vào con đường sáng tạo cuộc sống mới</div><div align="justify"> Cách mạng tháng Mười thắng lợi cho thấy "quần chúng lao động đã tạo ra trong hàng ngũ của họ điều kiện chủ yếu của thắng lợi đó: hợp nhất tất cả những sự cố gắng chống bọn bóc lột để lật đổ chúng". Điều đó "có ý nghĩa lớn trên thế giới". Cách mạng đã "thức tỉnh và phát động chính những tầng lớp xã hội "bên dưới" đứng lên hành động, những tầng lớp mà bọn bóc lột đã dìm xuống tận đất đen và chỉ sau ngày 25 tháng Mười 1917, họ mới được toàn quyền tự do lật đổ bọn bóc lột, tự do định phương hướng cho mình và tổ chức nhau lại theo ý muốn của mình"(13). </div><div align="justify"> Cách mạng tháng Mười đã đưa những tầng lớp dưới nhất trong số các quần chúng cần lao bị chế độ Nga hoàng và giai cấp tư sản áp bức lên chỗ tự do và lên một cuộc sống tự lập. Cuộc Cách mạng đó "vĩ đại và vô địch trước lịch sử toàn thế giới - vì lần đầu tiên đây không phải là những thiểu số, không phải chỉ độc những người giàu, chỉ độc những tầng lớp có học, mà là quần chúng chân chính, quảng đại quần chúng lao động đang tự xây dựng đời sống mới của mình, đang dựa vào kinh nghiệm bản thân để giải quyết những vấn đề gay go nhất của tổ chức xã hội chủ nghĩa". </div><div align="justify">Thực tế chỉ cho chúng ta thấy rằng, không phải ai cũng có thể nhìn nhận và đánh giá đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng mà "chỉ có người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền". Lênin là một tấm gương về sự dấn thân vào nguồn sáng tạo của nhân dân. Trong thời đại ngày nay, lời tuyên bố về sức mạnh sáng tạo và tính tự giác của quảng đại quần chúng lao động trong cách mạng vẫn được khẳng định: "thắng lợi sẽ thuộc về những người bị bóc lột, vì cuộc sống ủng hộ họ, vì họ có sức mạnh về số lượng, sức mạnh của quần chúng, những nguồn vô tận về lòng hy sinh, về lý tưởng, về tính trung thực của những người mà người ta gọi là "dân thường", tức là những công nhân và nông dân đang đứng lên phía trước, đang giác ngộ để xây dựng một thế giới mới có những dự trữ nghị lực và tài năng hết sức lớn lao. Thắng lợi thuộc về họ"(14).</div><div align="justify"> Lênin nhấn mạnh rằng, sức mạnh, sức sống, sức vô địch của cuộc Cách mạng tháng Mười 1917 là ở chỗ nó thức tỉnh được những đức tính ấy (tính tự giác và sáng tạo của nhân dân lao động), nó đạp đổ mọi trở lực cũ, nó chặt được những dây ràng buộc đã mục nát, nó đưa được quần chúng lao động vào con đường tự mình sáng tạo lấy cuộc sống mới. Nếu như trước kia, tất cả trí tuệ của loài người, tất cả thiên tài của con người sáng tạo ra chỉ để đem lại cho một số người toàn bộ lợi ích của kỹ thuật và văn hoá, và tước đoạt của đại đa số người khác những cái cần thiết như giáo dục và tiến bộ,… thì sau Cách mạng tháng Mười, "tất cả những cái kỳ diệu của kỹ nghệ, tất cả những thành quả của văn hoá, sẽ trở thành tài sản của nhân dân, và từ nay, không bao giờ trí tuệ cũng như thiên tài của loài người bị biến thành những phương tiện bạo lực, những phương tiện bóc lột nữa"… "Những người lao động sẽ thực hiện thành công nhiệm vụ lịch sử vĩ đại đó, vì họ mang trong bản thân họ những lực lượng tiềm tàng to lớn của cách mạng, của sự phục hưng và của sự đổi mới"(15). Những nhận định này của Lênin là những chân lý về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân, khẳng định sự phát triển lịch sử thuộc về sức mạnh vật chất và sức mạnh trí tuệ của quần chúng lao động. </div><div align="justify">Cách mạng tháng Mười đã giải phóng toàn thể nhân dân lao động, trong đó, lần đầu tiên địa vị của phụ nữ được khẳng định. Lênin viết: "Địa vị của phụ nữ chứng minh đặc biệt rõ sự khác nhau giữa chế độ dân chủ tư sản và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,… Dưới chế độ cộng hoà tư sản, dù đó là chế độ dân chủ nhất đi nữa, thì ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, ở bất kỳ nước tiên tiến nào, địa vị của phụ nữ cũng không được hoàn toàn bình quyền"(16)… Dưới chủ nghĩa xã hội, "bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà máy. Chính nhờ thế và chỉ có như thế mới mở được con đường giải phóng hoàn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được "chế độ nô lệ gia đình" nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hoá quy mô lớn".</div><div align="justify">Như vậy, Cách mạng tháng Mười đem lại quyền tự do, bình đẳng và chất sáng tạo trong việc thúc đẩy lịch sử phát triển của toàn thể nhân dân lao động. Cách mạng tháng Mười đã chứng minh bài học "muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng (công - nông) làm gốc"(17). Thắng lợi có ý nghĩa quốc tế của Cách mạng tháng Mười là khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân là lực lượng chủ yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp của thời đại hiện nay, và là người đi tiên phong mang ngọn cờ xã hội chủ nghĩa đến đích cuối cùng. </div><div align="justify">3. Cách mạng tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới - lần đầu tiên, quần chúng bị áp bức tự mình đứng ra thành lập chính quyền - Nhà nước vô sản </div><div align="justify">Cách mạng đã phá huỷ tới tận gốc bộ máy nhà nước cũ và thành lập một bộ máy quản lý mới dưới hình thức các tổ chức xô-viết. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới mang đậm dấu ấn của một thời đại mới với sự "thiết lập một kiểu nhà nước mới chưa từng thấy trong lịch sử, một nhà nước thể theo ý chí của cách mạng mà có nhiệm vụ quét sạch khỏi mặt đất mọi sự bóc lột, mọi bạo lực, mọi sự nô dịch"(18). Sự nghiệp sáng tạo ra một kiểu chế độ nhà nước xưa nay chưa từng có của Cách mạng Nga khiến cho nó khác hẳn về chất so với tất cả các cuộc cách mạng trước đây. Cách mạng tháng Mười chứng minh rằng, nó không phải là điều mà người ta tự ý bịa đặt ra, càng không phải là một kết quả của một thủ đoạn đảng phái, không phải là một cuộc bạo loạn điên cuồng, mà là kết quả của sự phát triển của bản thân cuộc sống, là kết quả của sự hình thành tự phát của cách mạng thế giới. "Những cuộc cách mạng trước đây đã ra sức chính là để đập tan cái bộ máy nhà nước cũ đó của bọn bóc lột, nhưng mãi cho đến nay những cuộc cách mạng đó vẫn chưa bao giờ hoàn thành triệt để được điều đó. Do những đặc điểm về tình hình kinh tế và chính trị của mình, nước Nga đã là người đầu tiên thực hiện được việc chuyển chính quyền vào tay bản thân những người lao động, nghĩa là nó không những giành lấy quyền chính trị, mà còn đoạt lấy chính ngay việc quản lý bộ máy nhà nước trong tay những giai cấp thống trị, trong tay những kẻ bóc lột và áp bức những người lao động, nhằm vĩnh viễn chấm dứt mọi sự bóc lột và mọi sự áp bức"(19).</div><div align="justify">Như vậy, tính thời đại có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Cách mạng tháng Mười còn ở chỗ, lần đầu tiên trong lịch sử loài người đã thực tiễn đặt ra những nhiệm vụ cơ bản của chuyên chính vô sản, đó là thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xoá bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khẳng định nền chuyên chính vô sản, Cách mạng tháng Mười đã lập nên một kiểu nhà nước mới - Nhà nước XHCN xô-viết, "đã mở đầu cho một cái gì lớn lao, mới mẻ, từ trước cho tới bây giờ chưa hề có trong lịch sử thế giới". Nhà nước XHCN ra đời đồng thời khai sinh ra "một chế độ dân chủ cao hơn và rộng hơn tất cả những chế độ dân chủ trước kia trên thế giới và mở đầu công cuộc sáng tạo của hàng chục triệu công nhân và nông dân nhằm thực hiện chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn"(20).</div><div align="justify">Với sự ra đời của một kiểu nhà nước hoàn toàn mới và nền dân chủ thực sự, Cách mạng tháng Mười "là cuộc cách mạng vô sản - cuộc cách mạng duy nhất có thể cứu vãn nền văn hoá đang lâm nguy và nhân loại đang lâm nguy". Cách mạng Nga đã đưa loài người thoát khỏi nền văn minh tư bản chủ nghĩa. Nó không chỉ bắt đầu thực hiện ước vọng của các nhà tư tưởng vĩ đại - đại biểu tiên tiến của loài người về một chế độ được xây dựng trên nền tảng của CNXH, mà còn hoàn thành thắng lợi của cuộc đấu tranh nhiều thế kỷ của những ai không chấp nhận bạo ngược của giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến và tư bản tham tàn, đứng lên giành lấy quyền sống theo những nguyên tắc của tình người.</div><div align="justify">4. Cách mạng tháng Mười đã sáng lập ra nền văn minh XHCN - nền văn minh nhân đạo khác hẳn và hơn hẳn với nền văn minh phương Tây trước đây. Tồn tại hơn 70 năm ở đất nước Liên Xô, nền văn minh xã hội chủ nghĩa, đúng hơn là những mầm mống của nền văn minh xã hội chủ nghĩa, đã chứng tỏ sự khác biệt hoàn toàn, mới về chất so với văn minh tư sản. </div><div align="justify"> Ngay sau khi Cách mạng thành công, trong công cuộc xây dựng nền tảng văn minh XHCN, Lênin đã nhấn mạnh tính kế thừa trong sự phát triển, không phủ nhận hoàn toàn CNTB trong việc sáng tạo văn hoá. Người cho rằng, cần phải áp dụng triệt để những thành tựu mới nhất của kỹ thuật hiện đại và khoa học tiên tiến vào phát triển đất nước, phải "biến toàn bộ cái vốn có vô cùng phong phú về văn hoá, về tri thức và về kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đã tích luỹ lại, cái vốn mà về mặt lịch sử tất phải cần thiết cho chúng ta - biến tất cả những cái đó từ chỗ là công cụ của chủ nghĩa tư bản thành công cụ của chủ nghĩa xã hội"(21). Lênin kêu gọi cần phải thực tế nắm lấy nền văn hoá đã được tạo nên bởi những quan hệ sản xuất cũ và lưu lại với tính cách là cơ sở vật chất của CNXH. </div><div align="justify">Sự phát triển của nền văn minh, văn hoá XHCN được bắt đầu từ ngay sau khi Cách mạng tháng Mười giành thắng lợi là sự thể hiện trên thực tế đạo lý của một tổ chức đời sống xã hội mới - là tấm gương phản chiếu ý nghĩa lịch sử của những nguyên lý đạo đức cách mạng XHCN cao nhất. Nền văn minh XHCN đã kết thúc sự tồn tại của chế độ người bóc lột người, chỉ ra con đường tiến tới sự phồn vinh của tự do và công bằng xã hội, thức tỉnh hàng chục triệu quần chúng lao động sáng lập nên lịch sử, đặt nền móng đầu tiên cho quá trình xoá bỏ thứ đạo đức tư nhân trong ý thức con người, kế thừa những truyền thống vinh quang, những giá trị tinh thần cao quý và tất cả những gì tốt đẹp nhất đã được trí tuệ con người và những trái tim đầy nhiệt huyết đúc kết trong nhiều thế kỷ.</div><div align="justify"> Lịch sử nhân loại đầu thế kỷ XX chứng kiến Cách mạng tháng Mười "vạch ra cho toàn thế giới những con đường dẫn tới chủ nghĩa xã hội", "ngưỡng cửa trực tiếp đi đến CNXH. Nhưng đến cuối thế kỷ XX, nhân loại lại bàng hoàng trước sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập sau Cách mạng tháng Mười bị tan rã. Tuy nhiên, nghịch lý lịch sử đó chỉ nói lên sự sụp đổ của một mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu chứ không phải là sự sụp đổ hoàn toàn của CNXH với tính cách là một chế độ xã hội tiến bộ, cao hơn CNTB. Lênin chỉ ra rằng, Cách mạng tháng Mười không chỉ có vạch đường chỉ lối dẫn tới CNXH mà mục tiêu của cuộc đấu tranh đó là "thắng lợi hoàn toàn của CNXH". Sự kiện diễn ra ở Liên Xô sau 74 năm Cách mạng tháng Mười đó đã chứng tỏ lời nhận định sâu sắc của Lênin: "Tính chất máy móc hành chính và quan liêu không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội" bởi "chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống" mà "chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng… tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội mới"(22).</div><div align="justify"> Thời đại mới do Cách mạng tháng Mười mở ra vẫn chưa kết thúc mà mới chỉ là những bước đi đầu tiên. Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Đi lên CNXH là con đường tất yếu mà Cách mạng tháng Mười vạch ra, nhưng có thể bằng nhiều hình thức, biện pháp thích hợp. Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của xã hội Trung Quốc và sự thành công rực rỡ của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đi lên CNXH, sự kiên cường của dân tộc CuBa,…là minh chứng thực tiễn cho sự nhận định của Lênin: "Chừng nào chúng ta chưa thực hiện được chủ nghĩa cộng sản toàn vẹn thì không một hình thức nào vĩnh viễn cả. Chúng ta không cho là chúng ta biết rõ con đường chính xác nhưng chắc chắn và nhất định chúng ta sẽ đi tới chủ nghĩa cộng sản"(23).</div><div align="justify"> Thực tế lịch sử thế kỷ XX cho thấy "lịch sử tiến theo những con đường ngoằn nghèo và những con đường vòng" và "cách mạng không khi nào lại diễn biến một cách thuận buồm xuôi gió để đảm bảo cho chúng ta một cao trào nhanh chóng và dễ dàng. Không có một cuộc cách mạng lớn nào, thậm chí một cuộc cách mạng trong phạm vi một nước, lại không trải qua một thời kỳ thất bại nặng nề"(24). Sự nhìn nhận của Lê nin quả thật là hết sức sâu sắc. Thời kỳ thất bại của cách mạng XHCN chỉ là có tính chất tạm thời, đó là sự khủng hoảng trong quá trình phát triển đi lên. Chân lý sáng ngời do Cách mạng tháng Mười đem lại cùng những thành quả thực tiễn của 70 năm xây dựng CNXH ở Liên Xô vẫn chứng minh bước mở đầu của cuộc cách mạng XHCN thế giới.</div><div align="justify"> 5. Cách mạng tháng Mười đánh dấu sự bùng nổ lan toả của cách mạng XHCN quốc tế</div><div align="justify">Lênin cho rằng "ý nghĩa quốc tế là giá trị quốc tế hoặc là sự tất yếu lịch sử được lặp lại trên phạm vi quốc tế cái diễn ra ở nước ta". Cách mạng tháng Mười đã thức tỉnh lòng tin của hàng triệu và hàng triệu công nhân tất cả các nước vào sức mạnh của bản thân họ và đã nhen lên ngọn lửa nhiệt tình cách mạng trong lòng họ. </div><div align="justify">Sau sự kiện Cách mạng tháng Mười, sự phát triển của phong trào cách mạng của giai cấp vô sản trong tất cả các nước tiên tiến, sự xuất hiện và phát triển ở khắp nơi của hình thức xô-viết của phong trào đó chỉ rõ rằng, thời đại cách mạng vô sản, cách mạng cộng sản thế giới, đã bắt đầu. Theo Lênin "ngày nay, chúng ta có trước mắt một kinh nghiệm quốc tế rất phong phú chứng thực hiển nhiên rằng một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng của ta không phải chỉ có ý nghĩa địa phương, ý nghĩa đặc thù dân tộc, ý nghĩa riêng cho nước Nga mà có ý nghĩa quốc tế … nó tác động đến tất cả các nước".</div><div align="justify">Cách mạng tháng Mười đã để lại những dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử nhân loại. Ngay từ những ngày đầu Cách mạng, nước Nga đã trở thành một thành trì vững chắc, và là một tác nhân kích thích mạnh mẽ đến tiến trình hoà bình thế giới, đảm bảo thắng lợi cho các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La Tinh. Lênin viết: mọi người đều nhìn thấy ở Cách mạng Nga một nguồn hy vọng, bởi vì nó là bó đuốc sẽ châm ngòi lửa khắp năm Châu. Nó "đã thành một hiện tượng thế giới, chính toàn thể giai cấp tư sản cũng nói như vậy, và lời thú nhận đó chứng tỏ hùng hồn rằng, cuộc cách mạng của chúng ta đã lan từ Đông sang Tây, nơi mà nó gặp được một cơ sở ngày càng thuận lợi". Trong đám lửa cháy đang lan ra toàn thế giới đó thì "chỉ có chính quyền của những người lao động mới có thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản thế giới". </div><div align="justify">Đáp lại những kẻ xuyên tạc, Lênin khẳng định: Cách mạng tháng Mười "chỉ là bước đầu của một cuộc cách mạng thế giới vĩ đại. Và cuộc cách mạng vĩ đại đó, chính chúng ta là những người phát động, chúng ta, dân tộc Nga "kỳ cục" và lạc hậu đấy… Cần phải nói rằng, lịch sử tiến theo những con đường rất lạ lùng; chính một nước lạc hậu lại có vinh dự đi đầu một phong trào thế giới vĩ đại, giai cấp vô sản toàn thế giới đều thấy và đều hiểu vấn đề này. Đám lửa này đang bao trùm cả Đức, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Hà Lan…"(25). Bởi thế, theo Lênin, ngày nay, không có một nhà chính trị giác ngộ nào trên thế giới, dù thuộc đảng phái nào, lại có thể không thấy cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới đã bắt đầu và đang diễn ra.</div><div align="justify">Tuy nhiên, để cách mạng thế giới thành công, chỉ một mình giai cấp vô sản Nga thì không thể làm được. Lênin khẳng định: nếu không có liên minh cách mạng thì sự nghiệp giải phóng nhân loại không thể toàn thắng. Chiến thắng CNTB trên phạm vi thế giới một cách hoàn toàn, vĩnh viễn, đó là điều không thể làm được trong một mình nước Nga. Điều đó chỉ có thể đạt được khi giai cấp vô sản đã thắng, ít ra là trong tất cả các nước tiền tiến, hoặc ít nhất là trong số nước lớn. Chỉ đến lúc đó chúng ta mới có thể nói chắc rằng, sự nghiệp của giai cấp vô sản đã thắng, rằng mục tiêu đầu tiên của chúng ta - đánh đổ CNTB - đã đạt được. </div><div align="justify">Sở dĩ nhân dân Nga là người đầu tiên đã phất cao ngọn cờ cách mạng XNCN là vì họ hiểu rằng họ không bị lẻ loi trong cuộc đấu tranh đó, và được sự giúp đỡ của bạn bè trung thành nhất thì họ sẽ hoàn thành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng đó. Cách mạng tháng Mười đã khôn khéo tránh cho nước Nga khỏi cuộc đấu tranh đế quốc chủ nghĩa, đã cứu đất nước khỏi mối thảm hoạ dân tộc mà các giai cấp bóc lột đã buộc đất nước phải chịu đựng, tránh cho nhân dân Nga khỏi nguy cơ bị nước ngoài nô dịch.</div><div align="justify">Cách mạng tháng Mười và phong trào xô-viết không chỉ còn là hình thức Nga của chính quyền vô sản nữa, mà theo Lênin, nó "đã trở thành lập trường của giai cấp vô sản thế giới trong cuộc đấu tranh của giai cấp đó để giành chính quyền". "Cách mạng XHCN tháng Mười đã trở thành một hiện tượng thế giới mà ý nghĩa quốc tế của nó chứng tỏ mong ước về một xã hội công bằng và bình đẳng, độc lập và dân chủ, lần đầu tiên "trở thành hiện thực trong xã hội, có sức mạnh vô cùng to lớn lôi cuốn hàng nghìn triệu người vào hoạt động cách mạng, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội"(26). </div><div align="justify">Đối với số phận của các dân tộc ở phương Đông, Cách mạng tháng Mười có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn, có tính vạch thời đại, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức ở châu Á, chỉ cho nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc con đường tự giải phóng, nêu gương tự do dân tộc thực sự để các nước Á Châu vùng lên giành quyền sống. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từng nói: đối với người Việt Nam, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Mác-Lênin tựa như nước uống đối với người đi đường bị khát, chờ đợi đã lâu ngày. </div><div align="justify">Ảnh hưởng quan trọng nhất của đối với cách mạng Việt Nam là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã tạo ra một cuộc chuyển biến về tư tưởng trong các nhà cách mạng Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên tìm thấy chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã nhận thấy ý nghĩa sâu sắc của Cách mạng tháng Mười. Ánh sáng Cách mạng tháng Mười đã sớm chiếu sáng đến đất nước Việt Nam, soi sáng con đường cách mạng cho nhân dân Việt Nam, cổ vũ nhân dân Việt Nam làm cách mạng đánh đổ bọn đế quốc áp bức và bè lũ tay sai của chúng ở trong nước. Nó đã chỉ cho giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam con đường giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH. </div><div align="justify">Nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh khẳng định trên báo Pravda: "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế"(27).</div><div align="justify">* *</div><div align="justify">*</div><div align="justify">Những nhiệm vụ lịch sử, những vấn đề cơ bản trên đây đã được Cách mạng XHCN tháng Mười Nga hoàn thành, song còn nhiều vấn đề cơ bản chưa được giải quyết, chưa được hoàn thành. Đó là sự thắng lợi hoàn toàn của CNXH - hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao hơn về chất so với CNTB - trên phạm vi toàn thế giới đang chờ đợi nhân loại tiến bộ sáng tạo nên. Tuy nhiên, ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Cách mạng tháng Mười dưới sự phản ánh của Lênin vẫn mang tính thời đại sâu sắc. Đây là cơ sở lý luận đúng đắn để nhìn nhận, đánh giá về tính chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng vĩ đại này. Lênin khẳng định: "Chính chúng ta đã bắt đầu sự nghiệp ấy… Bao giờ và trong thời đại nào thì người vô sản nước nào sẽ hoàn thành được sự nghiệp ấy, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng chính là băng đã tan, đường đã mở, lối đã vạch ra rồi"(28).</div><div align="justify">Cách mạng tháng Mười như ngọn đuốc của chủ nghĩa xã hội quốc tế, như tấm gương soi cho tất cả mọi quần chúng cần lao. "Ở đằng kia là tàn sát, chiến tranh đổ máu, là hàng triệu nạn nhân, là sự bóc lột của tư bản; ở đây là một chính sách hoà bình chân chính".</div><div align="justify"></div><div align="justify"></div><div align="justify">* Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “85 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 11/2002.</div><div align="justify">(1) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Marxcơva, t.44, tr. 179.</div><div align="justify">(2) V.I. Lênin, sđd, t. 44, tr. 274.</div><div align="justify">(3) V.I. Lênin, sđd, t. 44, tr. 184-185</div><div align="justify">(4) V.I. Lênin, sđd, t. 36, tr. 661</div><div align="justify">(5) V.I. Lênin, sđd, t. 38, tr. 104</div><div align="justify">(6) V.I. Lênin, sđd, t. 35, tr. 367</div><div align="justify">(7) V.I. Lênin, sđd, t. 35, tr. 368</div><div align="justify">(8) V.I. Lênin, sđd, t. 37, tr. 89, 100</div><div align="justify">(9) V.I. Lênin, sđd, t. 37, tr. 19</div><div align="justify">(10) V.I. Lênin, sđd, t. 36, tr. 119</div><div align="justify">(11) V.I. Lênin, sđd, t. 44, tr. 187</div><div align="justify">(12) V.I. Lênin, sđd,t. 36, tr. 597</div><div align="justify">(13) V.I. Lênin, sđd, t. 36, tr 248.</div><div align="justify">(14) V.I. Lênin, sđd, t. 35, tr. 232-233.</div><div align="justify">(15) V.I. Lênin, sđd, t. 35, tr. 348.</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2739392247601163552.post-63218445605499580402010-10-07T05:53:00.000-07:002010-10-07T06:21:09.013-07:00VỀ SCHOPENHAUER VÀ HỌC THUYẾT TRIẾT HỌC CỦA ÔNG<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: right;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjvUhplPbRkfDBSjR7YRAa8OH_Dc8PB-Y538AJEKfhojJ5mV_bRfli4z2n0-cMKJEinDsJOxzZYollYdIgEHXmrx7pkqv8TYxktAsDlfrmUsS8RPV51Yqg3rWhbKU3YY49wEXifIezUXFQ/s1600/1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" ex="true" height="209" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjvUhplPbRkfDBSjR7YRAa8OH_Dc8PB-Y538AJEKfhojJ5mV_bRfli4z2n0-cMKJEinDsJOxzZYollYdIgEHXmrx7pkqv8TYxktAsDlfrmUsS8RPV51Yqg3rWhbKU3YY49wEXifIezUXFQ/s320/1.jpg" width="320" /></a></div><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
<em><strong>Arthur Schopenhauer (22 tháng 2 1788 - 21 tháng 9 1860) là một nhà triết học người Đức, nổi tiếng nhất với tác phẩm "The World as Will and Representation" (Thế giới như là ý chí và biểu tượng). Schopenhauer là người đã đồng thời phản bác cũng như mở rộng tư duy triết học của Immanuel Kant về cách mà chúng ta trải nghiệm thế giới. Những chỉ trích của ông về quan điểm của Kant, các phương pháp sáng tạo liên quan đến những vấn đề kinh nghiệm của loài người và quan điểm của ông về việc cho rằng tầm hiểu biết của con người là hạn chế chính là những thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp của triết gia người Đức này. Lý thuyết siêu hình của ông chính là nền tảng cho các tác phẩm về đề tài tâm lý học, mỹ học, đạo đức học và chính trị học, những tác phẩm đã để lại tầm ảnh hưởng tới các danh nhân sau này như Friedrich Nietzsche, Wagner, Ludwig Wittgenstein, Sigmund Freud và nhiều người khác.</strong></em></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: justify;">Sinh thời, Schopenhauer (1788- 1860) là một người lập dị. Ông không bao giờ cho phép thợ hớt tóc cạo râu cho ông, vì sợ người ta có thể cắt cổ mình. Trong phòng ngủ, ông luôn có một khẩu súng nạp đạn sẵn, vì sợ người đời có thể bất ngờ ám hại ông. Một nhà thợ may tốt bụng nhưng lắm điều gây phiền hà cho ông đã bị ông xô ngã xuống nền nhà. Hậu quả là ông phải chịu mọi phí tổn nuôi dường người đàn bà tật nguyền này suốt đời. Sau nhiều lần cãi nhau quyết liệt, mẹ ông đã từ ông, vì không thể chấp nhận một đứa con "lúc nào cũng ca thán về trần gian ngu xuẩn và sự khốn cùng của kiếp người".</div><div style="text-align: justify;">Trong lịch sử triết học thế giới, ít có triết gia nào lại phê phán đồng nghiệp như Schopenhauer. Ông phỉ báng Hêgen, em học thuyết của Hêgen là "một thứ triết học vô nghĩa tuyệt đối", là "trò tào lao của kẻ sống trong nhà thương điên". ông kết tội Phichtơ là "một tên ngụy biện" và là "kẻ lường gạt". Có điều, để khỏi bị ra tòa vì tội xúc phạm anh dự người khác, Schopenhauer cũng đã thận trọng thuê luật sư cố vấn cho mình, để ông phê phán mà không hề phạm luật.</div><div style="text-align: justify;">Schopenhauer là người căm ghép và kinh miệt phụ nữ. Với ông, đó không phải là phái đẹp, mà chỉ là một giống người thấp bé, vai gầy, chân ngắn, phi thẩm mỹ. Chỉ có thứ đàn ông tăm tối bởi dục vọng mới ngợi ca đó là phái đẹp. Đẹp vì đâu? Đó chỉ là những sinh linh ngu dốt về âm nhạc, thi ca, nghệ thuật, chỉ thích bắt chước, thích làm đỏm, thích hoang phí và dối trá, là sinh vật nửa vời, nằm giữa đứa con nít và người đàn ông.</div><div style="text-align: justify;">Schopenhauer không có vợ, ông sống độc thân. Người bạn đời duy nhất của ông là một chú chó xù... </div><div style="text-align: justify;">Sự thù hận của Schopenhauer đối với đồng nghiệp, với phụ nữ và thế giới con người nói chung xuất phát từ bi kịch cuộc đời ông, từ sự thất bại chua cay trong khát vọng vinh quang, từ sự đồ vỡ của tình mẫu tử, và hơn hết là từ một cách nhìn đầy bi quan, ảm đạm đối với cuộc sống. Với ông: </div><div style="text-align: justify;"><br />
<strong>1. Thế giới là bể khổ.</strong><br />
</div><div style="text-align: justify;">Cuộc sống là sự lường gạt triền miên. Ý muốn của con người thì vô hạn, còn sự thỏa mãn lại hữu hạn. Con người không bao giờ có hạnh phúc và bình yên. Một ước vọng được thỏa mãn chính là cái nôi nảy sinh ra một ước vọng mới. Cái hiện thực duy nhất trong đời sống chính là sự đau khổ. Hạnh phúc và niềm hoan lạc chỉ là âm bản thiếu vắng sự khổ đau trong chốc lát. Cuộc đời thực sự là một "địa ngục mà trong đó con người vừa là những linh hồn bị đầy đọa, vừa là những ác quỷ".</div><div style="text-align: justify;">Để minh chứng cho quan niệm của mình rằng sự sồng chính là sự khổ đau và cuộc đời là địa ngục, Schopenhauer đã đưa ra vô vàn thí dụ trong các nhà thương, các phòng mổ, trại giam, tòa án, trại nô lệ, bãi chiến trường và khẳng định chính Đantơ đã lấy thế giới này làm nguyên mẫu để viết nên "Địa ngục của ông”. Và, cũng chính Đantơ đã thất bại khi viết niềm vui và cõi thiên đường, vì cái thế giới mà ta đương sống đầy không hề có những điều như thế. Nó chỉ có đau khổ, không gì khác ngoài đau khổ. Vì thế, cuộc sống không có gì đáng sống. Sự sống chính là sự chết được phanh lại, cũng như sự đi chính là sự ngã được níu kẻo, kìm giữ. Schopenhauer quan mềm rằng con người đương sống cũng chính là con người đương điên rồ hy vọng "khiêu vũ trong đôi tay thần chết". Nguồn gốc của đau khổ có rất nhiều. Nhưng theo ông, nếu không kể đến sự khốn cùng của phần đông nhân loại, thì con người khổ đau đ hai nguyên nhân chính: Một là, con người là một sinh vật có ham muốn vô hạn, không gì có thể làm đầy nơi thẳm sâu không đáy của trái tim con người, hai là, sự buồn chán luôn luôn là bạn đồng hành của hiện hữu. Sự buồn chán và những ước vọng không được thỏa mãn đã cố kết nên nỗi đau khổ triền miên của kiếp người. Suy cho cùng, số phận con người gắn chặt với cô đơn. Và mỗi người đều cô đơn với chính mình.</div><div style="text-align: justify;">Hơn thế nữa, mỗi một cá thể khổ đau vì buồn chán, vì những ham muốn không bao giờ được thỏa mãn kia đâu có dừng lại ở chính mình. Nó không những làm khổ nó bằng dục vọng mà còn biến cuộc sống của kẻ khác thành địa ngục. Biểu trưng cho hành vi con người đối với nhau là sự đối xừ bất công, tàn nhẫn, hà khấc hoặc thậm chí dã man. "Kẻ dữ thi ăn thịt lẫn nhau, kẻ lành thì lường gạt lẫn nhau. Và người ta gọi đấy là lộ trình của thế giới". Không chỉ con người là sinh linh chịu đau khổ, Schopenhauer còn đi xa hơn trong nhận định của mình. Ông cho rằng mọi vật đều chịu chung số phận ấy. Toàn bộ thiên nhiên là một cuộc vật lộn không khoan nhượng vì sự tồn sinh. Thiên nhiên là một trường náo loạn của các sinh vật bị hành hạ và khiếp hãi. Chúng chi tồn tại bằng cách con vật này nghiến ngấu con vật kia. Và mỗi vật đều là nấm mồ sống của trăm ngàn con khác. Một thế giới như vậy, một thiên nhiên như vậy nơi con người là hiện thân của khổ đau, nơi con vật này là mồ chôn của con vật khác, nơi kẻ dữ ăn thịt nhau và kẻ lành lường gạt nhau ... theo ông, thế giới ấy "không nên tồn tại", hoặc nói khác đi, sự tồn tại phải nhường chỗ cho sự không tồn tại.</div><div style="text-align: justify;">Quan điểm của Schopenhauer coi cuộc sống là sự khổ đau, nguyên cớ của khổ đau là sự ham muốn vô độ nơi con người cho ta thấy ông rất gần với giáo lý nhà Phật. Có lẽ thời kỳ sống ở Vai ma và nghiên cứu văn hóa Ấn Độ cổ đại đã để lại nhiềudấu ấn trong ông và, cũng thật lý thú khi ta nghe ông bàn về sự giải thoát. Schopenhauer đã đưa ra khái niệm về ý chí nguyên thủy (Urwille), coi đó là cội nguồn của tất cả, là sự khởi phát của mọi khổ đau. Muốn giải thoát mình, con người cần phải phủ định ý chí và nhận thức được rằng trong thảm sâu của mọi hiện thực đều có ý chí nguyên thủy ngư trị, mọi đau khổ trên thế giới đều chỉ là những hiện tượng của một ý chí nguyên thủy luôn luôn xung đột và đối lập với chính nó. Hiểu được như thế, trong tâm tưởng con người sẽ có sự thư thái, không bận lòng vì những hiện tượng khổ đau, sẽ thanh thản từ chối những gì mà trái tim ham muốn, sẵn sàng chịu khổ đau để cuối cùng đến được với sự yên tĩnh hoàn toàn trong tăm khảm, không còn ham muốn. Và, Schopenhauer khẳng định: thay cho những khát vọng không bao giờ được thỏa mãn, những thôi thúc và đòi hỏi không ngừng, ta sẽ có sự yên bình, sẽ đến được với "sóng yên biển lặng của tâm tại. Phủ định ý chí và dục vọng bằng cách nhìn nhận mọi sự việc, mọi hành vi trên đời chỉ là những hiện tượng bên ngoài của một cội nguồn sâu thẳm không thể lý giải và nhận thức, đó là cách giải thoát về phương diện lý thuyết, còn về thực hành, Schopenhauer cho rằng con người cần "đồng cam chịu khổ" (Mitleiden) với người khác để giúp cho người khác đỡ khổ. Lập luận của ông là như sau: nếu mọi sinh linh đều bị bao trùm bởi một ý chí nguyên thủy thống nhất thì các sinh linh đó đều gắn bó với nhau từ cội nguồn. Nghĩa là, về thực chất, tất cả chỉ là một. Không có những giới hạn lường gạt các cá thể. Coi cái khổ của người khác như cái khổ của chính mình, từ đó sẽ hình thành sự thương cảm, đồng cam chịu khó, và con người, không còn là một cá thể, sẽ gánh chung nỗi khổ của toàn nhân loại, của mọi sinh linh. Sự thương cảm sẽ là cội nguồn của những hành vi đạo đức vượt qua tính vị kỷ, sẽ thể hiện trong lòng thương người vả sự công bằng. Tóm lại: sự thương cảm, đồng cam cộng khổ là cội nguồn của cái thiện, còn sự ích kỷ là cội nguồn của cái ác. Đó chính là nguyên tắc cơ bản trong đạo đức học Schopenhauer.</div><div style="text-align: justify;"><br />
<strong>2. "Thế giới là ý chí và tưởng tượng". </strong><br />
</div><div style="text-align: justify;">Tác phẩm chủ yếu này của Schopenhauer, người đã tự xưng là "hoàng đế của triết học" và tấn phong các học trò của mình là "các thánh tông đồ", được viết ra khi ông mới 30 tuổi. Cuốn sách ra đời năm 1819, phần lớn bị bán làm giấy vụn. Tác giả và tác phẩm rơi tôm vào quên lãng, mặc dù ông' đã khẳng định tác phẩm này... "là một hệ thống triết học mới.... là một chuỗi tư tưởng gắn bó với nhau ở mức cao có nhất mà xưa nay chưa có đầu óc nào nghi ra". Mãi hai mươi năm sau, khi làn sóng bi quan bao trùm khắp nước Đức sau thất bại của cuộc cách mạng năm 1848, người ta mới đổ xô nhau tìm đọc tác phẩm của ông, coi ông như một thần tượng của triết học và cuốn sách bi vứt đi kia bỗng trở nên sáng giá. </div><div style="text-align: justify;">Có thể nói, toàn bộ tư tưởng triết học của Schopenhauer được gói gọn trong mệnh đề "Thế giới là ý chí và tưởng tượng". Tất cả những gì ông viết ra sau này chỉ là sự bình giải, bổ sung hoặc chi tiết hóa mệnh đề đó. Tùy theo giác độ nghiên cứu và quan sát, công trình nói trên của ông có thể được nhìn nhận là siêu hình học (quyển I, quyển II), là đạo đức học (quyển III), hoặc mỹ học (quyển IV).</div><div style="text-align: justify;">Mở đầu tác phẩm, Schopenhauer viết: "<em>Thế giới là sự tưởng tượng của tôi</em>". Với mệnh đề nảy, ông muốn khẳng định rằng toàn bộ hiện thực tồn tại trước hết là hiện thực thuần túy, do con người tưởng tượng ra. Những gì mà con người trực tiếp lĩnh hội được chưa phải là cái cách mà vật thể tự nó là như thế hoặc đúng như thế Con người không biết gì hết về cái cây tự nó mà chỉ biết sự tưởng tượng của chính mình về cái cây, cũng như "không biết gì về mặt trời, về trái đất, mà chỉ là con mắt nhìn thấy mặt trời, bàn tay cảm nhận được trái đất", nói cách khác, vạn vặt chỉ là những hiện tượng. Ở điểm này, Schopenhauer rất gần với Cantơ. Bản thân ông đã khẳng định triết học Cantơ là cửa ngõ để đi vào triết học của ông, ai muốn hiểu ông, người đó cần hiểu Platôn, Cantơ, và triết học Ấn Độ. </div><div style="text-align: justify;">Schopenhauer cũng theo sát ý tưởng của Cantơ khi ông gạt bỏ khỏi đối tượng không gian, thời gian, tính nhân quả mà quy chúng vào tinh thần con người, khi ông nhận đinh rằng mọi vật tự nó không mang tính không gian, thời gian hay tính nhân quả mà là do con người khởi thủy đã mang trong mình thời gian, không gian và tính nhân quả rồi gán chúng vào thế giới. Luận đề này về tính hiện tượng của thế giới đặc biệt có ý nghĩa đối với những yếu tố bi quan chủ nghĩa trong học thuyết triết học của Schopenhauer. Có thể nói rằng luận đề thứ nhất của ông chưa phải là khám phá mới mê trong triết học, nó cũng tương tự như Cantơ hay Platôn. Một khi Schopenhauer khẳng định: thế giới là sự tưởng tượng của tôi, thì trước ông, Cantơ đã viết: mọi vật được mang lại cho ta chỉ là những hiện tượng, Platôn cũng đã nói: thế giới hiện ra đối với mọi cảm giác không hài là tồn tại đích thực, hoặc kinh Vệ đà cũng đã chỉ rõ: thế giới nhìn thấy được là cái bên ngoài không có bản chất, là lớp màn che phủ, hay nói ngắn gọn là maya.</div><div style="text-align: justify;">Tuy nhiên, nếu cách nhìn nhận hiện thực của Schopenhauer chỉ dừng lại ở luận đề "thế giới là sự tưởng tượng của tôi" thì ông cũng chỉ mới bước tới chủ nghĩa duy tâm thuần túy, còn thế giới thì chẳng là gì khác ngoài cái "bên ngoài", ngoài sự tưởng tượng muôn thuở. Khi nghiên cứu sâu hơn về sự tưởng tượng ấy Schopenhauer muốn tìm xem đằng sau những hiện tượng là cái gì? Điều này Cantơ đã nói tới khi ông đưa ra một khái niệm rất khó xác định, đó là "vật tự nó". Schopenhauer đã đi xa hơn Cantơ khi ông tìm ra bản chất của cái gọi là "vật tự nó" ở Cantơ. Bản chất ấychính là ý chí. Và luận đề thứ hai của Schopenhauer chính là: <em>Thế giới là ý chí.</em> </div><div style="text-align: justify;">Nếu chỉ nghiên cứu từ bên ngoài thì không sao đến được với bàn chất của vạn vật, cũng giống người đi quanh một ngôi nhà mà - không sao tìm được lối vào. Schopenhauer cho rằng con đường duy nhất để đi đến bản chất nằm trong chính chúng ta, trong từng cá thể, bởi váy ông đã nghiên cứu cơ thể con người dưới góc độ triết học. Theo ông, cơ thể con người là một biểu trưng của hai dạng thức: một là, nó là sự tưởng tượng đã được khách thể hóa, "có thể nhìn thấy được", là khách thể trong mối quan hệ nhân quả của mọi hiện tượng, hai là, cơ thể con người còn là một cái gì đó tiềm ầm sâu xa mà chỉ chính nó mới cảm nhận được. Sự tiềm ẩm sâu xa ấy chính là ý chí . Nghĩa là, cơ thể con người không những lả một hiện tượng, một khách thể, mà là sự biểu đạt của ý chí. Mọi vận động của cơ thể đều xuất phát từ những xung động của ý chí, đều là những hình thái biểu đạt ra bên ngoài của ý chí. Cả những cơ quan chức năng lẫn hình dáng cơ thể đều là những phương thức biểu đạt. Từ đó Schopenhauer đã đi đến luận điểm cho rằng cơ thể con người chính là ý chí đã được khách thể hóa thành đối tượng có thể nằm thấy được. Nó vừa là một vặt thể, nhưng xét theo góc độ "Vật tự nó" thì đó là ý chí. Schopenhauer cho rằng chính ông là người đã khám phá ra bản chất của cái mà Cantơ gọi là "Vật tự nó", rằng ý chí chính là bản chất sau xa nhất của con người. Theo ông, cơ thể người chính là ý chỉ được khách thể hóa theo không gian và thời gian. Đó là chân lý triết học đích thực nhất. Bản chất của con người (hiểu theo nghĩa là ý chí) không nằm trong ý thức, trong tư duy hay lương tri. Đó là sự làm ác muôn thuở của các triết gia mọi thời đại. ông quan niệm rằng ý thức chỉ là bình điện bên ngoài của bản chất, y như lớp vỏ ngoài của trái đất chúng ta. Cả những tư tưởng, ý nghĩ cũng chỉ là bề mặt bên trên của một nguồn nước ngầm sâu thẳm. Quá trình hình thành những phán xét của chúng ta không phải là sự liên kết những ý nghĩ mạch lạc theo quy luật lôgic mà nó diễn ra từ nơi sâu thẳm, gần như là vô thức, giống như sự tiêu hóa. Con người thường kinh ngạc vì chính mình bất chợt có những ý nghĩ, những quyết định nảy sinh không thể lý giải được vì đâu. Trong chốn thâm sâu đầy bí hiểm luôn có ý chí ngự trị, nó điều khiển kẻ nô bộc của mình là con người. Nhưng ý chí chí là kẻ cai trị mù lòa. Nó vác trên vai mình một kẻ bị tê liệt nhưng nhìn được vạn vật. Con người dường như được kẻo về phía trước, nhưng thực ra thì nó được đấy từ phía sau, từ một nơi bí huyền sâu thẳm. Sức mạnh ấy chính là ý chí sống vô thức, nó không hề biến đổi, tồn tại trong mọi mạch tư duy và hành vi con người. Cả trí nhớ cũng chỉ là cô hầu gái của ý chí. Những gì con người gọi là tính cách hay nhân cách cũng đều do ý chí quyết định. Mọi chúc năng hữu thức đều thấm mệt và cần đến giấc ngủ, duy chỉ có ý chí là vĩnh viễn tỉnh táo, giống như sự hô hấp, như hoạt động của trái tim, không ngừng và không bao giờ mệt mỏi, vì tất cả đều diễn ra một cách vô thức. </div><div style="text-align: justify;">Schopenhauer cũng đã vận dụng quan điểm coi "cơ thể người vừa là hiện tượng vừa là ý chí được khách thể hóa" như một chiếc chìa khóa để lý giải bản chất của mọi hiện thực. Theo ông, mọi sự vật đều lả một sự biểu đạt, một sự hiện thực hóa của ý chí ngự trị trong nó. Sức mạnh của ý chí ngư trị khắp nơi. Sức mạnh ấy khiến cho cỏ cây đâm chồi nẩy lộc và úa tàn, khiến cho cho nam châm quay về hướng bắc cực, khiến viên đá rơi xuống trái đất, kẻo trái đất về hướng mặt trời... Nghĩa là cả thế giới đều là sự khách thể hóa của ý chí, thế giới là ý chí. </div><div style="text-align: justify;">Với quan niệm ý chí là bản chất, là động lực điều hành vạn vật, Schopenhauer đã có những kiến giải đáng chú ý về con người, nhất là về quan hệ lứa đôi. ở nơi con người, sự biểu đạt mạnh mẽ nhất của ý chí sống là động lực duy trì nòi giống. Động lực này mạnh tới mức khiến con người phớt mặc cả cái chết của cá nhân. Một khi sự bảo tồn cá thể được thực hiện thì sinh vật người vươn tới sự duy trì nòi giống nhằm bảo tồn chủng loại. Nếu nhận thức của con người ngư trị trong bộ não thì bộ phận sinh lý của nó là nơi ngự trị của động lực tính dục, là tiêu điểm của ý chí và đối cực của não bộ. Hai cá thể khác giới có sức hút mạnh mẽ đối với nhau, đó là nhờ sức mạnh bất khả kháng của ý chí sống thể hiện trong chủng loại. Tình yêu chỉ là trò lường gạt của tự nhiên vì mục đích duy nhất là bảo tồn nòi giống. Hai cá thể tìm đến nhau hoặc gọi là "yêu nhau", về thực chất em là việc thực hiện sự lựa chọn để bảo tồn một "kiểu" chủng loại. Cá thể "yêu' cái mà mình không có. Nó chọn cho mình một đối tượng phù hợp nhất với sự bảo tồn của một kiểu chủng loại nhất định, ví như cá thể nam tính nhất sẽ tìm chọn một cá thể nữ tính nhất hoặc ngược lại. Trong sự lựa chọn này, cá thể hành động nhưng không biết vì sao lại hành động, bởi nó thực thi một sứ mạng của cái cao cả hơn, đó là chủng loại. Do đó, sự đam mê cái khác giới bị mê hoặc bởi ý chí chủng loại hơn là bởi cá nhân . Một khi mục đích bảo tồn nòi giống được bảo tồn từ phía cá thể thì trò chơi lường gạt của tự nhiên là tình yêu cũng mất đi mọi ý nghĩa. Sắc đẹp của đàn bà, một thứ nghệ thuật quan trọng nhất, một phương tiện dẫn đến mục đích truyền giống và bảo tồn nòi giống sẽ sớm tàn phai sau khi đã thực hiện được chức năng. Trong tình yêu tình dục, mỗi cá thể thực chất chỉ là công cụ của chủng loại. Tình yêu chết dần trong hôn nhân vì thiên nhiên không cần chơi trò lường gạt nữa. Chỉ có ý chí sống thể hiện trong chủng loại là mãi mãi không đổi theo không gian và thời gian. Đó là một hình thái không thay đổi, chỉ có vật chất ở mỗi cá thể đổi thay theo thời gian và không gian mà thôi, giống như cái bình muôn đời cũ chỉ thay bằng rượu mới. </div><div style="text-align: justify;">Schopenhauer cũng đã áp dụng quan điểm này vào lịch sử. Theo ông, đằng sau tất cả mọi hiện tượng là ý chí bất di bất dịch của thế giới. Dù có sự khác biệt giữa các dân tộc, thời đại, trang phục, tập quán, ngôn ngữ... thì ở mọi nơi, một thời đại cũng vẫn chỉ là nhân loại ấy. Chỉ có sự khác biệt về vật chất, còn hình thái vẫn thế, vẫn là nhân loại muôn thuở. Do đó, theo ông, kẻng có cái gọi là sự tiến bộ của lịch sử. Biểu tượng của mọi diễn biến đều là một vòng tròn. Mọi thời đại các nhà thông thái cũng chỉ nói những điều giống nhau, mọi kẻ gàn cũng chỉ nói những điều như nhau, và đàn ông đàn bà mọi thời đại cũng vẫn chỉ là những công cụ thực hiện ý chí sống trong chủng loại.</div><div style="text-align: justify;">Đánh giá các quan điểm siêu hình của Schopenhauer, các triết gia đương đại cho rằng ở Schopenhauer có những nhận định giống các nhà duy tâm như Se linh hay Phichtơ. Ông cũng tìm cách khám phá bí mật của thế giới trong bản thân cái môi, giống như Phichtơ nói bản chất của cái tôi là ý chí và sẽ nhìn thấy ở giới tự nhiên và tinh thần một sức mạnh vô thức, có khả năng kiến tạo và thúc đẩy. Nhưng cái khác ở Schopenhauer là ở chỗ: trong khi đối với các nhà duy tâm thì cái cuối cùng và tuyệt đối là tinh thần, ý niệm, lý trí phát triển trong một quá trình vận động hướng đích, thì đối với Schopenhauer lại là một ý chí mù lòa, một cội nguồn thế giới phi lý tính và ngược lại với lý trí. Đối với ông, thế giới không phải là lôgic hay phi lôgic, mà là phản lôgic, lý trí là công cụ của ý chí phi lý tính. Chính ở điểm này Schopenhauer đã phá vỡ mạch tư duy xưa nay về sự hài hòa của một thế giới chỉnh thể. Và, ông đã thực sự là người thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa lạc quan sang chủ nghĩa bi quan. Công lao mãi mãi của ông đối với giới triết học là ở chỗ: chính ông đã hướng triết học vào chiều sâu thăm thẳm nằm phía dưới tầng ý thức của con người, và với châu Âu, ông là người đã mở đường cho triết học và tâm lý học vô thức ra đời và phát triển.</div><div style="text-align: justify;"><br />
</div><div style="text-align: right;"><strong><span style="color: black;">Quang Chiến</span></strong></div><div style="text-align: right;"><em>Theo</em> <b>Tạp chí Triết học</b></div><div style="text-align: justify;"><br />
</div>Adminhttp://www.blogger.com/profile/02524971691069790530noreply@blogger.com0